Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Saturday 15-12-2012 2:48am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

New_Picture_121 Thực hiện 5 biện pháp can thiệp phòng ngừa hiệu quả nhất sẽ làm giảm 5% tỉ lệ sinh non ở các nước có thu nhập cao nhất – tỉ lệ giảm tương đối nhỏ, nhưng có thể ngăn ngừa 58.000 trẻ em sinh non và kết quả này tiết kiệm tổng chi phí $ 3 tỷ USD mỗi năm.


Hannah H. Chang, MD, PhD, chuyên viên tư vấn thuộc nhóm Boston ở Massachusetts và cộng sự báo cáo phát hiện của họ trong một bài báo trực tuyến ngày 16 tháng 11 trên tờ Lancet trong Ngày Sinh non Thế giới.

Tháng 5 năm 2012, Tổ chức Y tế Thế giới công bố bài "Sinh quá sớm: Báo cáo hành động toàn cầu về sinh non”, trong đó nêu ra các can thiệp dựa trên bằng chứng để ngăn ngừa sinh non.

"Mục tiêu của chúng ta là thực hiện một phân tích đa quốc gia về xu hướng của tỷ lệ sinh non từ 2000-2010 ở các nước với nhiều dữ liệu mạnh hơn và ước tính khả năng giảm sinh non với việc thực hiện đầy đủ các biện pháp can thiệp hiện nay đã được chứng minh. Mục tiêu phụ là xem xét việc thiết lập các mục tiêu giảm sinh non cho các nước này" tiến sĩ Chang và cộng sự viết.

Các tác giả ước tính hiệu quả của các can thiệp này (giảm chỉ định mổ lấy thai và khởi phát chuyển dạ không cần thiết, hạn chế chuyển nhiều phôi trong hỗ trợ sinh sản, ngừng hút thuốc lá, bổ sung progesterone và khâu cổ tử cung) tại 39 nước có thu nhập cao nhất.

Thực hiện các biện pháp can thiệp ở những quốc gia này có thể dẫn đến giảm khoảng 5% tỷ lệ sinh non, tương ứng với một sự thay đổi tuyệt đối về tỷ lệ sinh non từ 9,6% xuống 9,1%.

Hiệu quả lớn nhất sẽ được thấy với việc giảm chỉ định sanh mổ và khởi phát chuyển dạ không cần thiết, các nguyên nhân này giúp giảm khoảng một nửa trường hợp sinh non.

Các nhà nghiên cứu tìm thấy sự thay đổi đáng kể về tỉ lệ giảm tuyệt đối giữa các quốc gia nghiên cứu (giảm từ 1% đến 8%) cũng như hiệu quả tương đối của từng can thiệp. Họ lưu ý rằng mặc dù giảm chỉ định sinh mổ và khởi phát chuyển dạ không cần thiết sẽ có hiệu quả cao nhất tại Hoa Kỳ, ảnh hưởng của nó không đáng kể ở Thụy Điển. Ngược lại, khâu cổ tử cung cho phụ nữ có sinh non trước đó và cổ tử cung ngắn sẽ có tác động lớn nhất ở Thụy Điển.

Các tác giả ước tính rằng việc giảm 5% tỉ lệ sinh non ở các nước nghiên cứu sẽ ngăn chặn khoảng 58.000 trường hợp sinh non mỗi năm và kết quả tiết kiệm chi phí kinh tế 3 tỷ USD. Họ khuyến cáo nên hướng tới một mục tiêu giảm tỷ lệ sinh non 5% vào năm 2015.

"Chi phí dự kiến tiết kiệm được là đáng kể, nhưng chi phí và gánh nặng còn lại do sinh non gây ra vẫn còn lớn, điều này nhấn mạnh sự cần thiết của các can thiệp mới có tác động lớn hơn nhằm ngăn chặn sinh non", các tác giả viết.

Dự phòng khó khăn

Trong một bài luận đi kèm, Jane E. Norman, MBChB, MD, giáo sư ở Trung tâm sức khỏe bà mẹ và thai nhi Tommy của Đại học Edinburgh ở Anh và Andrew H. Shennan, MD, từ Trung tâm giáo dục sức khỏe phụ nữ và là giáo sư sản khoa tại đại học King London Anh, đã nhắm đến các khó khăn trong việc ngăn ngừa sinh non. Sinh lý bệnh của sinh non chưa được hiểu rõ, và những kiến thức mà chúng tôi có không phải tất yếu dẫn đến can thiệp hiệu quả, họ viết.

"Mặc dù nhiễm trùng trong tử cung là nguyên nhân được chấp nhận rộng rãi nhất của sinh non không rõ nguyên nhân, điều trị kháng sinh dự phòng là không hiệu quả và có hại trong một số trường hợp, các nhà bình luận viết.

Ngoài ra, các liệu pháp có sẵn không hiệu quả cho tất cả phụ nữ, họ lưu ý. "Trong khi progesterone và khâu cổ tử cung có hiệu quả ở phụ nữ mang đơn thai, nhưng hai biện pháp này đều không hiệu quả trong trường hợp mang đa thai, và khâu cổ tử cung thậm chí có thể có hại."

Các chất đánh dấu sinh học cũng cần thiết. Các chất đánh dấu sinh học tốt nhất hiện nay (fibronectin của bào thai trong dịch cổ tử cung và chiều dài kênh cổ tử cung ngắn) là hữu ích nhưng cần cải thiện, do tỷ lệ dự đoán khả năng sinh non thấp hơn 10", lưu ý của các nhà bình luận.

Ảnh hưởng lâu dài của các biện pháp phòng ngừa cho bé cũng sẽ được thiết lập, các nhà nghiên cứu kết luận.

Nguồn: Lancet. Published online November 16, 2012.  Article summaryEditorial extract

Người dịch: Bs Mạc Thị Mỹ Nguyện

Từ khóa:
Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK