Tác giả Mehta và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu với giả định rằng sự kết hợp anastrozole (chất ức chế tổng hợp estrogen sau tuổi mãn kinh) và fulvestrant (tác nhân thúc đẩy sự thoái hóa các thụ thể estrogen) có thể hiệu quả hơn việc sử dụng đơn thuần một tác nhân trong điều trị ung thư vú di căn có thụ thể hormone dương tính (HR+). Nghiên cứu được tiến hành và tài trợ bởi những nhà nghiên cứu từ Southwest Oncology Group (SWOG).
Hơn 700 phụ nữ hậu mãn kinh với ung thư vú di căn HR+ không được điều trị đã được phân bố ngẫu nhiên 1:1 để nhận 1mg anastrozole uống mỗi ngày, chuyển sang fulvestrant đơn thuần vào thời điểm bệnh tiến triển, hoặc anastrozole kết hợp fulvestrant 300 mg tiêm bắp ngày 1, liều thứ hai 250 mg ngày 14 và mỗi 28 ngày sau đó. Sau khi liều fulvestrant hàng tháng cao hơn (500 mg) cho thấy hiệu quả hơn và được công nhận bởi Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ (US Food and Drug Administration [FDA]), phác đồ này đã được sửa đổi cho phép bệnh nhân nhận liều fulvestrant cao hơn khi bệnh tiến triển. Kết cục chính là thời gian sống mà bệnh không tiến triển (progression-free survival [PFS]).
Trung vị PFS là 13.5 tháng trong nhóm nhận chất ức chế men thơm hóa đơn thuần và 15.0 tháng trong nhóm nhận điều trị kết hợp. Phương pháp kết hợp được xem là hiệu quả hơn trên mọi phương diện, và thời gian sống toàn bộ cũng dài hơn trong nhóm này. Không có tính độc hại nào phát sinh trong liệu pháp kết hợp này.
Các nhà nghiên cứu kết luận rằng phương pháp kết hợp có hiệu quả hơn một thuốc đơn thuần và dung nạp tốt khi dùng như điều trị đầu tay cho phụ nữ ung thư vú di căn có HR+, thậm chí khi liều fulvestrant thấp hơn liều được chấp nhận hiện nay.
Nghiên cứu này được tiến hành bởi SWOG bao gồm những phụ nữ nhận chất ức chế aromatase trong điều trị bổ trợ với điều kiện quá trình này hoàn tất hơn 12 tháng trước khi tham gia. Do đó dân số nghiên cứu có tính đại diện cho những người thường được chữa trị tại đơn vị điều trị của nhóm nghiên cứu. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu đã điều chỉnh ngay lập tức theo sự tăng liều thuốc của FDA, điều này có thể mang lại lợi ích cho những bệnh nhân có bệnh đang tiến triển.
Các kết cục được chọn hợp lý, nghiên cứu được thiết kế và trình bày tốt. Cả hai nhóm, như mong đợi, đã đáp ứng tốt, và sự khác biệt PFS thì tương đối nhỏ (dù khác biệt có ý nghĩa thống kê). Mục tiêu nghiên cứu đã đạt được. Điều thú vị là tính ưu việt của sự kết hợp thấy rõ khi thời gian điều trị kéo dài hơn, như chúng tôi đã mong đợi trong nhóm bệnh nhân này, những người đáp ứng tốt với bất kì can thiệp nội tiết nào. Điều thú vị nhất trong phân tích này là những bệnh nhân dường như không có thêm lợi ích từ điều trị kết hợp là những người đã được điều trị trước đó với tamoxifen.
Liệu pháp kết hợp cũng cho kết quả cải thiện một cách đáng kể về kết cục phụ là thời gian sống toàn bộ hơn 6 tháng. Điều này củng cố ý kiến là liệu pháp kết hợp tốt hơn liệu pháp tuần tự. Những nghiên cứu trước không cho thấy bất kì lợi ích nào từ điều trị kết hợp nội tiết. Mehta và cộng sự đề nghị kết quả của họ có thể được giải thích bởi một số lượng lớn bệnh nhân của họ (39%) đã có di căn khi bắt đầu và do đó chưa từng được điều trị với tamoxifen hay trị liệu nội tiết khác.
Nghiên cứu này không làm thay đổi thực hành nhưng cung cấp thông tin cho nghiên cứu trong tương lai về trị liệu kết hợp nội tiết trong cả điều trị bổ trợ và di căn. Đối với các nhà lâm sàng, phương pháp kết hợp đáng được xem xét đối với những bệnh nhân chưa từng điều trị bằng nội tiết hay bệnh nhân có bệnh tiến triển nhạy với hormone.
Nguồn: http://www.medscape.com/viewarticle/770263 ngày 1/10/2012
Người dịch: Đặng Bích Thảo
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Quinter Central Nha Trang, Chủ Nhật ngày 12 . 01 . 2025
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...