Những bệnh ác tính thường được chẩn đoán khi lớn tuổi. Tuy nhiên vài loại ung thư thường gặp ở trẻ em và thanh niên hơn. Hơn nữa, vài ung thư thường được chẩn đoán ở dân số già hơn cũng có thể được phát hiện ở thanh niên.
Trị liệu ung thư đã tiến bộ một cách đáng kể trong những thập kỷ vừa qua. Với hiểu biết tốt hơn về cơ chế sinh bệnh của hầu hết các ung thư, những công cụ tầm soát hữu hiệu hơn đã được phát triển. Những xét nghiệm này cho phép xác định ung thư ở giai đoạn sớm, khi còn có thể điều trị bảo tồn và có thể đạt được tỷ lệ sống cao hơn.
Trị liệu cho bệnh giai đoạn muộn hơn cũng được cải thiện. Xạ trị có thể tập trung ở cơ quan hay khối u liên quan, và giảm thiểu tổn thương những mô lành khác. Hóa trị hiện nay ít tác dụng phụ hơn, và phẫu trị có thể bảo tồn tốt hơn.
Những sự phát triển này đã làm cải thiện tỷ lệ sống còn, và kết quả là số người sống sót sau bệnh ung thư ngày càng tăng. Những người được điều trị ung thư trong độ tuổi sinh sản có thể giữ được khả năng sinh sản sau đó và vì thế cần chọn lựa phương pháp ngừa thai hay kế hoạch hóa gia đình.
Hóa trị và xạ trị được biết là có những tác dụng gây quái thai. Do đó, biện pháp ngừa thai phải được sử dụng trong quá trình điều trị và ít nhất 6 tháng sau khi hoàn thành điều trị. Nhiều biện pháp ngừa thai có thể sử dụng, tất cả đều có những tác dụng phụ khác nhau. Những tác dụng phụ này cần phải được xem xét đến vì những nhu cầu đặc biệt của bệnh nhân ung thư.
Hướng dẫn tránh thai dành cho phụ nữ bị ung thư
Hội Kế hoạch hóa gia đình đã đưa ra các hướng dẫn về những chọn lựa tránh thai dành cho phụ nữ bị ung thư. Hội này chỉ ra rằng mặc dù hóa trị và xạ trị có thể ảnh hưởng đến khả năng có thai, nhiều phụ nữ vẫn duy trì được khả năng này. Xét nghiệm AMH là công cụ tốt nhất sẵn có để đánh giá số lượng nang noãn còn lại, nhưng không thể loại trừ khả năng có thai của bệnh nhân, thậm chí với những bệnh nhân có dự trữ buồng trứng bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Loại ung thư và những nguy cơ chuyên biệt sẽ ảnh hưởng đến những lựa chọn tránh thai của bệnh nhân. Hormone được biết đến có vai trò trong sự phát triển của ung thư vú; do đó, không khuyến khích sử dụng thuốc tránh thai kết hợp hoặc thuốc chứa progestin đơn thuần ở những phụ nữ đang điều trị ung thư vú. Ở những phụ nữ này, dụng cụ tử cung chứa đồng dường như là chọn lựa tốt nhất. Đối với phụ nữ có sử dụng tamoxifen trong chế độ điều trị ung thư, dụng cụ tử cung chứa progesterone (IUS) có vẻ đem lại nhiều lợi ích nhất. Việc sử dụng IUS giúp chống lại tác dụng làm tăng sinh nội mạc tử cung của tamoxifen đồng thời ngừa thai hữu hiệu.
Ung thư làm tăng nguy cơ thuyên tắc mạch. Do đó, thuốc tránh thai kết hợp estrogen/progestin không được khuyên dùng trong quá trình điều trị ung thư. Dữ liệu hiện tại về thuốc chứa progestin đơn thuần không đủ để dưa ra lời khuyên vững chắc về tác động của thuốc đối với nguy cơ thuyên tắc mạch. Tuy nhiên, những bệnh nhân thiếu máu có thể có lợi từ việc sử dụng thuốc tránh thai kết hợp vì chúng làm giảm lượng máu mất khi hành kinh. Điều này cũng đúng với dụng cụ tử cung phóng thích levonorgestrel.
Thuốc tiêm depot medroxyprogesterone acetate không được khuyến cáo đối với bệnh nhân bị loãng xương; thay vào đó, một biện pháp dùng estrogen có thể có lợi đối với những bệnh nhân này. Mặc dủ không có chống chỉ định, cần phải lưu ý khi sử dụng dụng cụ tử cung ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch.
Việc xác định biện pháp tránh thai nào có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư cũng rất quan trọng. Người ta đã tìm ra sự liên quan của thuốc tránh thai kết hợp và tăng nguy cơ ung thư vú, nhưng những báo cáo gần đây không khẳng định mối liên quan này. Thuốc chứa progestin đơn thuần không được tìm thấy có liên quan với ung thư vú. Sử dụng thuốc tránh thai kết hợp có liên quan với giảm nguy cơ ung thư buồng trứng và ung thư nội mạc tử cung. Dụng cụ tử cung phóng thích levonorgestrel cũng liên quan với giảm nguy cơ ung thư nội mạc tử cung.
Quan điểm
Những tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị ung thư đã làm tăng chất lượng cuộc sống cho những bệnh nhân ung thư cả trong và sau quá trình điều trị. Nhiều bệnh nhân ung thư có những mối quan hệ mà trong đó hoạt động tình dục là một phần trong cuộc sống của họ. Quan hệ tình dục không có biện pháp bảo vệ có thể dẫn đến mang thai dù khả năng mang thai lúc đó rất thấp. Thai kỳ có thể không được mong đợi vì những tác động gây quái thai tiềm tàng của điều trị ung thư, hoặc lo ngại rằng thai kỳ có ảnh hưởng tiêu cực đến diễn tiến bệnh. Phụ nữ đang điều trị ung thư hay sống sót sau ung thư thường chấm dứt thai kỳ hơn, hành động này gây những hậu quả về tâm lý và cảm xúc. Vì thế, việc tư vấn thích hợp về tránh thai đối với những phụ nữ này là rất quan trọng.
Nhiều cách tránh thai sẵn có dành cho phụ nữ bị ung thư và những người sống sót sau ung thư, và lựa chọn tùy thuộc vào hoàn cảnh mỗi bệnh nhân. Loại ung thư, tuổi bệnh nhân, dự trữ buồng trứng, những bệnh khác kèm theo, và những lợi ích tiềm tàng ngoài tác dụng tránh thai, tất cả cần được lưu tâm tới khi quyết định biện pháp được sử dụng. Cũng cần xem xét đến vài loại tránh thai giúp bảo vệ chống lại một số loại ung thư.
Với việc sử dụng biện pháp tránh thai hiệu quả và thích hợp, phụ nữ đang điều trị ung thư hoặc sống sót sau ung thư có thể duy trì một cuộc sống bình thường nhất có thể mà không lo ngại về thai ngoài ý muốn hoặc nguy hại đến sức khỏe của họ.
Nguồn: http://www.medscape.com/viewarticle/771338
Người dịch : Đặng Bích Thảo
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...