Theo một nghiên cứu được công bố trực tuyến ngày 18 tháng 10 của tạp chí Human Reproduction, người phụ nữ lần đầu tiên mang thai bị thai ngoài tử cung có thể có ít con hơn trong những năm sau so với những người phụ sinh con bình thường, sẩy thai hoặc phá thai ở lần mang thai đầu tiên. Những phụ nữ này cũng có khả năng có thai ngoài tử cung trong tương lai nhiều hơn.
Lund Kårhus, MD, một nghiên cứu sinh tại Bệnh viện phụ khoa tại Rigshospitalet, Copenhagen, Đan Mạch, và các đồng nghiệp đã tiến hành một nghiên cứu hồi cứu dựa trên những dữ liệu đăng ký của người dân Đan Mạch năm 1977 đến hết năm 2009. Dữ liệu này liên quan đến những phụ nữ mang thai ngoài tử cung từ 1977 đến 1982 cùng với những phụ nữ cùng độ tuổi có thai lần đầu mà phá thai, sẩy thai, hoặc sinh con bình thường, cũng như với các phụ nữ không mang thai.
"Chúng tôi thấy rằng nhóm phụ nữ có lần mang thai đầu tiên là thai ngoài tử cung có tỷ lệ sinh con và tổng số lần có thai trong vòng 20-30 năm theo dõi là thấp nhất sau khi so sánh với các nhóm khác, và tỷ lệ sẩy thai cũng như nạo phá thai cũng thấp hơn", tiến sĩ Kårhus cho biết trên báo chí. “Nguy cơ mang thai ngoài tử cung cũng gia tăng 4,7-10 lần trong tương lai."
Các nhà nghiên cứu đã xác định được 40.101 phụ nữ có ít nhất 1 lần mang thai ngoài tử cung từ 1 tháng 1 năm 1977 đến ngày 31 tháng 12 năm 2009, 2917 phụ nữ có lần mang thai đầu tiên là thai ngoài tử cung xảy ra giữa năm 1977 và 1982 đã được gia nhập vào nhóm nghiên cứu.
Tính đến hết năm 2009, phụ nữ có lần mang thai đầu tiên là thai ngoài tử cung có tỷ lệ sinh tích lũy thấp nhất, 69 trên 100 trường hợp sinh, so với phụ nữ bị sẩy thai ở lần mang thai đầu tiên là 125,7 trên 100 trường hợp sinh, nhóm phá thai là 77,4 trên 100 người sinh, nhóm sinh bình thường là 72,7 trên 100, hoặc chưa từng mang thai trong khoảng thời gian bắt đầu nghiên cứu, 100,5 trên 100.
Tỷ số giữa các tỷ lệ sinh (RR) ở mỗi nhóm lần lượt là 0,55 (95% CI, 0,52 - 0,58), 0,89 (95% CI, 0,84 - 0,95), 0,95 (95% CI, 0,89 - 1,01), và 0,69 (95% CI, 0,65 – 0,72). "So với nhóm sẩy thai, phụ nữ bị thai ngoài tử cung ở lần mang thai đầu tiên bị giảm 45% khả năng sinh sau này", các nhà nghiên cứu nhận xét. Ngoài ra, 15% trường hợp mang thai sau này sau lần đầu mang thai ngoài tử cung cũng là thai ngoài tử cung.
Các nhà nghiên cứu cho biết khoảng 1% số thai kì là thai ngoài tử cung và thai ngoài không thể phát triển và sống được.
"Chúng tôi nghĩ phụ nữ bị thai ngoài tử cung ở lần mang thai đầu tiên phải cố gắng hơn để đạt được số lần sinh mà họ mong muốn", Tiến sĩ Kårhus cho biết trên báo chí. "Tuy nhiên, nỗ lực của họ lại khó thành công bởi thực tế họ bị giảm khả năng sinh sản, do đó, cuối cùng họ sinh ít hơn."
Bà nói thêm, "Các kết quả này cho thấy khả năng sinh sản bị tổn thương ở phụ nữ mang thai ngoài tử cung và thậm chí sau 30 năm họ có con ít hơn đáng kể so với những phụ nữ khác. Chúng tôi đã dự đoán rằng, theo thời gian, phụ nữ sẽ bù đắp cho sự giảm khả năng sinh sản của họ bằng cách nỗ lực nhiều hơn nữa để mang thai. Tuy nhiên, kết quả của chúng tôi chứng minh rằng những nỗ lực của họ không mang lại số con bằng với những người phụ nữ khác."
Hạn chế của nghiên cứu này bao gồm thiếu dữ liệu thai kỳ trước năm 1977 và thiếu thông tin về việc mang thai có được dự định hay không. Tuy nhiên, độ mạnh của nghiên cứu là chiều sâu của thông tin đăng ký của người dân Đan Mạch về kết quả sinh sản, các nhà nghiên cứu viết.
"Nghiên cứu sẽ có giá trị hơn nữa nếu tiếp tục được theo dõi đầy đủ với số lượng lớn hơn các bệnh nhân trong các phân nhóm nghiên cứu, và thực tế rằng nó được dựa trên dữ liệu đăng ký, điều này giúp loại bỏ những sai lệch hồi tưởng và những sai lệch khác phát hiện trong quá trình theo dõi," họ viết.
Người dịch: Lê Thị Kiều Trang
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...