Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 12-08-2009 10:12pm
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế

luproncoup

 

Từ trước đến nay, do đặc tính có một phần cấu trúc giống với LH và tác động lên thụ thể của LH, hCG đã được sử dụng trong hầu như tất cả các trường hợp thụ tinh trong ống nghiệm để khởi phát giai đoạn trưởng thành cuối cùng của nang noãn.


Tuy nhiên, hCG cũng gắn liền với nguy cơ khởi phát quá kích buồng trứng ở những bệnh nhân đáp ứng quá mức với kích thích buồng trứng. Người ta đã quan sát thấy rằng hCG có vai trò quyết định trong cơ chế bệnh sinh của quá kích buồng trứng, nếu không có hCG thì không xảy ra quá kích buồng trứng. Trong khi đó, LH lại hoàn toàn không có liên quan đến hội chứng này.

Quá kích buồng trứng là một biến chứng nặng của kích thích buồng trứng, làm ảnh hưởng xấu đến sức khỏe bệnh nhân cũng như gia tăng chi phí điều trị. Do đó, các nhà khoa học đã luôn tìm cách thay thế hCG bằng các phương pháp khác để tạo ra đỉnh LH ngoại sinh hoặc nội sinh trong việc khởi phát trưởng thành noãn nhằm loại trừ hoàn toàn nguy cơ quá kích buồng trứng. Phác đồ GnRH antagonist ra đời và ngày càng được sử dụng rộng rãi thay thế cho phác đồ Down-Regulation đã khiến cho nhiều nhà khoa học nghĩ đến việc sử dụng GnRH agonist vào một mục đích khác. Trong trường hợp kích thích buồng trứng bằng phác đồ GnRH antagonist, GnRH agonist có thể được sử dụng để tạo ra đỉnh LH nội sinh do tác động flare-up mà không gây ra quá kích buồng trứng.

Để nghiên cứu hiệu quả sử dụng GnRH agonist trong việc khởi phát trưởng thành nang noãn, bác sĩ Peter Humaidan, thuộc The Fertility Clinic, bệnh viện Viborg, Đan Mạch, và các cộng sự đã tiến hành một nghiên cứu tiền cứu ngẫu nhiên từ tháng 8/2003 đến tháng 2/2004 trên 122 bệnh nhân làm thụ tinh trong ống nghiệm với phác đồ GnRH antagonist. Những bệnh nhân này được phân bố ngẫu nhiên để nhận 10.000 IU hCG (67 bệnh nhân) hoặc 0,5 mg Buserelin (55 bệnh nhân) để khởi phát sự trưởng thành cuối cùng của nang noãn. Phác đồ hỗ trợ giai đoạn hoàng thể là tương tự giữa 2 nhóm, với 90 mg progesterone bơm âm đạo và 4 mg estradiol uống mỗi ngày. Số phôi chuyển tối đa là 2 phôi.

Kết quả nghiên cứu cho thấy:

§ Tỉ lệ trứng trưởng thành MII trong nhóm GnRH agonist cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm hCG (84 ± 18% so với 68 ± 22%, P < 0,02).

§ Không có sự khác biệt có ‎ý nghĩa thống kê về tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ phân cắt và số phôi chuyển trung bình giữa 2 nhóm.

§ Tỉ lệ thai sinh hóa là 29% và 44% lần lượt trong nhóm GnRH agonist và nhóm hCG, nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.

§ Tuy nhiên, tỉ lệ làm tổ của phôi và thai lâm sàng trong nhóm sử dụng GnRH agonist thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm sử dụng hCG (3/89 so với 33/97, P < 0,001, và 6% so với 36%, P = 0,002).

§ Tỉ lệ sẩy thai sớm trong nhóm GnRH agonist cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm hCG (79% so với 4%, P = 0,005).

§ Không thấy báo cáo về tỉ lệ quá kích buồng trứng.

Dựa vào các kết quả trên, các nhà nghiên cứu kết luận rằng có thể sử dụng GnRH agonist để khởi phát sự trưởng thành nang noãn thay cho hCG trong các chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm với phác đồ GnRH antagonist. Tuy nhiên, tỉ lệ có thai thấp và sẩy thai cao khi sử dụng GnRH agonist đòi hỏi các nghiên cứu sâu hơn để tìm nguyên nhân và giải pháp khắc phục. Các nhà nghiên cứu cho rằng nguyên nhân chính là do giai đoạn hoàng thể suy yếu khi dùng GnRH agonist vì khi đó, đỉnh LH không đủ dài để tạo hoàng thể đầy đủ. Ngoài ra, cũng cần thêm các báo cáo về tỉ lệ quá kích buồng trứng khi dùng GnRH agonist thay cho hCG. Nếu có thể cải thiện tỉ lệ có thai và giảm thiểu hoặc loại trừ hoàn toàn quá kích buồng trứng, GnRH agonist hứa hẹn là một thay thế hiệu quả và an toàn cho những bệnh nhân làm thụ tinh trong ống nghiệm có nguy cơ cao bị quá kích buồng trứng.

BS Nguyễn Khánh Linh

Nguồn: P.Humaidan, H.Ejdrup Bredkjær, L.Bungum, M.Bungum, M.L.Grøndahl, GnRH agonist (buserelin) or hCG for ovulation induction in GnRH antagonist IVF/ICSI cycles: a prospective randomized study, Human Reproduction Vol.20, No.5 pp.1213-1220, 2005

Từ khóa:
Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Ngày 9-10 . 8 . 2024, Indochine Palace, Huế

Năm 2020

New World Saigon Hotel (Số 76 Lê Lai, Phường Bến Nghé, Quận 1, ...

Năm 2020

Caravelle Hotel Saigon, chiều thứ bảy 20.4 và chủ nhật 21.4.2024

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Sách ra mắt ngày 9 . 3 . 2024 và gửi đến quý hội viên trước ...

Y học sinh sản số 68 ra mắt ngày 25 . 12 . 2023 và gửi đến quý ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK