Tin tức
on Friday 02-05-2025 9:27am
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Phan Thị Tùng Phương, CN. H Meri Kbuor - Đơn vị Hỗ trợ sinh sản IVFMD Buôn Ma Thuột - Bệnh viện Đại Học Y dược Buôn Ma Thuột
Trong bài tổng quan này, nghiên cứu các dữ liệu có liên quan tới tác động của chlamydia trachomatis, độ chính xác của các phương pháp hiện đang sử dụng để phát hiện vi khuẩn này, phản ứng miễn dịch của cơ thể đối với nhiễm trùng, các hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra do chlamydia.
Dịch tễ học và các chương trình tầm soát chlamydia trachomatis
Chlamydia có liên quan tới chi phí y tế cao về cả mặt xã hội lẫn tài chính. Do đó trong suốt thế kỷ thứ 21, nhiều Chính phủ đã triển khai chương trình tầm soát chlamydia Quốc gia, được thiết kế với nhiều chiến lược khác nhau và đã được điều chỉnh theo thời gian nhằm đạt mục tiêu chính là giảm sự lây truyền vi khuẩn và giảm tỷ lệ nhiễm chung trong cộng đồng.
Nghiên cứu phân tích tổng hợp nhằm ước tính tỷ lệ hiện mắc chlamydia trachomatis toàn cầu, nghiên cứu đã xác định rằng tỷ lệ này có thể thay đổi giữa các khu vực như Châu Phi, Đông Nam Á, Châu Âu, trong đó Đông Nam Á có tỷ lệ nhiễm thấp nhất, điều này cũng được xác nhận trong bản tin Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).
Phương pháp chẩn đoán chlamydia trachomatis
Chẩn đoán chlamydia ban đầu được thực hiện bằng phương pháp nuôi cấy tế bào, do đó các phương pháp khác được phát triển nhằm đạt kết quả chẩn đoán tốt hơn, các phương pháp phát hiện kháng thể được phát triển. Ví dụ phương pháp miễn dịch huỳnh quang trực tiếp (Direct immunoflourescence – DIF), sử dụng bộ kit chlamydia và phương pháp xét nghiệm nhanh.
Hiện nay phương pháp phát hiện chlamydia trachomatis phù hợp nhất là phương pháp khuếch đại axit nucleic, đối với phương pháp này các mẫu dịch niệu đạo và cổ tử cung phải được thu thập bởi bác sĩ, các bước tiếp theo chiết xuất axit nucleic đánh giá qua máy phổ quang và khuếch đại (Real – Time PCR) trong phòng thí nghiệm.
Gần đây, đã có những tiến bộ trong việc chẩn đoán chlamydia trichomatis thông qua các xét nghiệm khuếch đại axit nucleic. Tuy nhiên xét nghiệm này phải yêu cầu 90 phút để có kết quả chẩn đoán. Do đó để rút ngắn thời gian có kết quả, một thử nghiệm đầy triển vọng được phát triển dựa trên phương pháp khuếch đại polymerase tái tổ hợp chỉ yêu cầu 15 phút phát hiện chlamydia trachomatis.
Các lựa chọn hiện tại và thách thức
Lựa chọn duy nhất để điều trị các trường hợp nhiễm bệnh bằng cách kê đơn kháng sinh. Vi khuẩn này được điều trị bằng các loại kháng sinh như tetracyclines, ức chế tổng hợp protein, fluoroquinolones, ức chế tổng hợp axit nucleic, thực tế kháng thuốc đối với tác nhân gây bệnh này cực kỳ hiếm. Tuy nhiên, trong một số trường hợp tình trạng kháng thuốc có thể xảy ra. Hơn nữa cần nhấn mạnh rằng việc điều trị đầy đủ cho bạn tình của những người nhiễm chlamydia là bắt buộc nhằm tránh tình trạng tái nhiễm và đảm bảo hiệu quả điều trị cho các bệnh nhân này.
Chlamydia trachomatis là một yếu tố nguy cơ gây vô sinh
Nhiễm chlamydia trachomatis có thể tồn tại ở nam và nữ, không gây ra triệu chứng, làm ảnh hưởng tới khả năng sinh sản. Các nghiên cứu gần đây về vô sinh nam đã kết luận rằng, nhiễm trùng có thể gây tắc nghẽn đường dẫn tinh trùng và thậm chí có thể làm thay đổi quá trình sinh tinh, ảnh hưởng tới cả chất lượng và số lượng tinh trùng.
Ở phụ nữ vi khuẩn này có thể di chuyển từ đường sinh dục dưới lên đường sinh dục trên, ảnh hưởng đến tử cung, ống dẫn trứng, buồng trứng, dẫn đến các bệnh viêm nhiễm mà tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, có thể gây những biến chứng nghiêm trọng. Một số gen đột biến ở chlamydia trachomatis cũng được báo cáo có liên quan đến hiện tượng kháng thuốc kháng sinh. Phương pháp hiệu quả để phát hiện nhiễm trùng trước đây có thể là nguyên nhân gây vô sinh là thông qua việc tìm kiếm các kháng thể IgG đặc hiệu vì kháng thể này có thể tồn tại lâu dài trong cơ thể.
Mối liên hệ giữa chlamydia và sự hình thành ung thư
Nghiên cứu hiện tại cho thấy chưa có chứng cứ liên quan mối liên hệ giữa chlamydia trichomatis ở sự hình thành khối u ở nam giới. Nghiên cứu này báo cáo về mối liên quan ở nữ giới, trachomatis có liên quan đến nguy cơ ung thư cổ tử cung cao hơn, đồng thời tình trạng nhiễm lâu năm có thể liên quan đến sự phát triển của khối u ở cổ tử cung.
Nghiên cứu cũng giải thích mối liên hệ giữa nhiễm chlamydia và nguy cơ ung thư cổ tử cung gia tăng dựa trên thực tế nhiễm chlamydia gây phản ứng viêm trong cơ thể kích hoạt việc sản xuất cytokine, yếu tố tăng trưởng và yếu tố mạch máu, điều này có thể dẫn đến sự không ổn định về di truyền và phân bào bất thường. Các bằng chứng cho thấy nhiễm chlamydia trachomatis làm tăng nguy cơ nhiễm và duy trì HPV. Sự đồng nhiễm này làm tăng nguy cơ ung thư cổ tử cung vì sự phá vỡ biểu mô do vi khuẩn gây ra, tăng tốc độ xâm nhập của vi rút, đồng thời hệ miễn dịch suy yếu, tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển ung thư.
Theo nguyên cứu có khoảng 80% bệnh nhân ung thư buồng trứng có chẩn đoán nhiễm chlamydia. Tuy nhiên mặc dù đã có nhiều bằng chứng vẫn tồn tại một số nghiên cứu trái ngược liên quan tới chủ đề này, cần thực hiện nhiều nghiên cứu để khẳng định mối liên hệ này.
Thảo luận về triển vọng tương lai của các chương trình tầm soát chlamydia
Nghiên cứu đề xuất triển khai chương trình y tế Quốc gia nhằm tầm soát chlamydia, sử dụng công nghệ khuếch đại axit nucleic để đạt độ nhạy cao hơn.
Kết luận
Một trong những bệnh lây truyền qua đường tình dục phổ biến nhất là chlamydia, do vi khuẩn chlamydia trachomatis gây ra. Con người là vật chủ tự nhiên của vi khuẩn này, với đối tượng nhiễm chủ yếu là các tế bào biểu mô ở đường sinh sản của nam và nữ. Mặc dù phần lớn các trường hợp nhiễm chlamydia không triệu chứng, trong một số trường hợp, nhiễm trùng mãn tính có thể dẫn đến viêm vùng chậu và liên quan đến vấn đề sức khỏe nghiêm trọng như vô sinh ở cả nam giới và nữ giới và quá trình hình thành khối u ở nữ giới.
Do đó việc kiểm soát căn bệnh này và hiểu rõ thực tế các trường hợp nhiễm cũng như hậu quả lâu dài của chúng vô cùng là cần thiết. Bài tổng quan nhấn mạnh những tiến bộ hiện tại mà các Quốc gia đã đạt được sau khi triển khai chương trình tầm soát Quốc gia chlamydia, từ đó mang lại những lợi ích đáng kể về mặt sức khỏe cộng đồng và kinh tế, đồng thời giảm chi phí phát sinh các biến chứng lâu dài của bệnh.
Nghiên cứu so sánh hiệu quả của các phương pháp phát hiện chlamydia hiện có và các phương pháp đầy hứa hẹn trong tương lai, đồng thời thảo luận về cách thức biện pháp y tế dự phòng có thể góp phần, cắt đứt chuỗi lây truyền, tiến tới mục tiêu loại trừ căn bệnh này.
Chlamydia trachomatis as a Current Health Problem: Challenges and Opportunities
Rafaela Rodrigues, Carlos Sousa and NunoVale
Diagnostics 2022, 12, 1795
Giới thiệu
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO), vào năm 2020, ước tính có khoảng 129 triệu ca nhiễm mới do chlamydia trachomastis gây ra. Chlamydia là một trong những bệnh lây truyền qua đường tình dục (Sexually Transmitted Infections - STIs) phổ biến trên toàn cầu. Bệnh do vi khuẩn chlamydia trachomatis gây ra có thể tìm được ở các vị trí như: miệng, dương vật, âm đạo, hậu môn. Loại vi khuẩn gram âm có liên quan tới 19 kiểu huyết thanh và các biến thể khác nhau được phân loại trên kiểu gen của gen ompA. Cụ thể các kiểu huyết thanh (Serovar), A – C có liên quan đến bệnh viêm mắt hột, serovar D – K, liên quan tới nhiễm khuẩn mắt – sinh dục (Oculogenital infections), serovar L1 – L3 liên quan đến bệnh hạch bạch huyết sinh dục (Lymphogranuloma venereum). Tuy nhiên phần lớn các trường hợp khoảng hơn 80%, nhiễm trùng diễn ra mà không có triệu chứng, có nghĩa là người bệnh không biết rằng họ có thể lây nhiễm cho người khác, điều này làm gia tăng nguy cơ lây bệnh hơn nữa. Mặc dù có thể chữa khỏi bằng kháng sinh, nhưng nếu không được điều trị, chlamydia có thể gây tổn thương nghiêm trọng lâu dài đối với cơ quan sinh sản, chẳng hạn như: đau mạn tính, viêm vùng chậu, tăng nguy cơ thai ngoài tử cung và có thể gây vô sinh ở phụ nữ. Ở nam giới chlamydia có thể gây ra như: viêm niệu đạo, viêm tuyến tiền liệt, viêm trực tràng và viêm khớp phản ứng. Điều quan trọng là có thể xảy ra đồng nhiễm với các vi sinh vật khác như vi rút papilloma ở người (Human Papillomavirus - HPV), vi khuẩn gây bệnh lậu (Neisseria gonorrhoeae).Trong bài tổng quan này, nghiên cứu các dữ liệu có liên quan tới tác động của chlamydia trachomatis, độ chính xác của các phương pháp hiện đang sử dụng để phát hiện vi khuẩn này, phản ứng miễn dịch của cơ thể đối với nhiễm trùng, các hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra do chlamydia.
Dịch tễ học và các chương trình tầm soát chlamydia trachomatis
Chlamydia có liên quan tới chi phí y tế cao về cả mặt xã hội lẫn tài chính. Do đó trong suốt thế kỷ thứ 21, nhiều Chính phủ đã triển khai chương trình tầm soát chlamydia Quốc gia, được thiết kế với nhiều chiến lược khác nhau và đã được điều chỉnh theo thời gian nhằm đạt mục tiêu chính là giảm sự lây truyền vi khuẩn và giảm tỷ lệ nhiễm chung trong cộng đồng.
Nghiên cứu phân tích tổng hợp nhằm ước tính tỷ lệ hiện mắc chlamydia trachomatis toàn cầu, nghiên cứu đã xác định rằng tỷ lệ này có thể thay đổi giữa các khu vực như Châu Phi, Đông Nam Á, Châu Âu, trong đó Đông Nam Á có tỷ lệ nhiễm thấp nhất, điều này cũng được xác nhận trong bản tin Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).
Phương pháp chẩn đoán chlamydia trachomatis
Chẩn đoán chlamydia ban đầu được thực hiện bằng phương pháp nuôi cấy tế bào, do đó các phương pháp khác được phát triển nhằm đạt kết quả chẩn đoán tốt hơn, các phương pháp phát hiện kháng thể được phát triển. Ví dụ phương pháp miễn dịch huỳnh quang trực tiếp (Direct immunoflourescence – DIF), sử dụng bộ kit chlamydia và phương pháp xét nghiệm nhanh.
Hiện nay phương pháp phát hiện chlamydia trachomatis phù hợp nhất là phương pháp khuếch đại axit nucleic, đối với phương pháp này các mẫu dịch niệu đạo và cổ tử cung phải được thu thập bởi bác sĩ, các bước tiếp theo chiết xuất axit nucleic đánh giá qua máy phổ quang và khuếch đại (Real – Time PCR) trong phòng thí nghiệm.
Gần đây, đã có những tiến bộ trong việc chẩn đoán chlamydia trichomatis thông qua các xét nghiệm khuếch đại axit nucleic. Tuy nhiên xét nghiệm này phải yêu cầu 90 phút để có kết quả chẩn đoán. Do đó để rút ngắn thời gian có kết quả, một thử nghiệm đầy triển vọng được phát triển dựa trên phương pháp khuếch đại polymerase tái tổ hợp chỉ yêu cầu 15 phút phát hiện chlamydia trachomatis.
Các lựa chọn hiện tại và thách thức
Lựa chọn duy nhất để điều trị các trường hợp nhiễm bệnh bằng cách kê đơn kháng sinh. Vi khuẩn này được điều trị bằng các loại kháng sinh như tetracyclines, ức chế tổng hợp protein, fluoroquinolones, ức chế tổng hợp axit nucleic, thực tế kháng thuốc đối với tác nhân gây bệnh này cực kỳ hiếm. Tuy nhiên, trong một số trường hợp tình trạng kháng thuốc có thể xảy ra. Hơn nữa cần nhấn mạnh rằng việc điều trị đầy đủ cho bạn tình của những người nhiễm chlamydia là bắt buộc nhằm tránh tình trạng tái nhiễm và đảm bảo hiệu quả điều trị cho các bệnh nhân này.
Chlamydia trachomatis là một yếu tố nguy cơ gây vô sinh
Nhiễm chlamydia trachomatis có thể tồn tại ở nam và nữ, không gây ra triệu chứng, làm ảnh hưởng tới khả năng sinh sản. Các nghiên cứu gần đây về vô sinh nam đã kết luận rằng, nhiễm trùng có thể gây tắc nghẽn đường dẫn tinh trùng và thậm chí có thể làm thay đổi quá trình sinh tinh, ảnh hưởng tới cả chất lượng và số lượng tinh trùng.
Ở phụ nữ vi khuẩn này có thể di chuyển từ đường sinh dục dưới lên đường sinh dục trên, ảnh hưởng đến tử cung, ống dẫn trứng, buồng trứng, dẫn đến các bệnh viêm nhiễm mà tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, có thể gây những biến chứng nghiêm trọng. Một số gen đột biến ở chlamydia trachomatis cũng được báo cáo có liên quan đến hiện tượng kháng thuốc kháng sinh. Phương pháp hiệu quả để phát hiện nhiễm trùng trước đây có thể là nguyên nhân gây vô sinh là thông qua việc tìm kiếm các kháng thể IgG đặc hiệu vì kháng thể này có thể tồn tại lâu dài trong cơ thể.
Mối liên hệ giữa chlamydia và sự hình thành ung thư
Nghiên cứu hiện tại cho thấy chưa có chứng cứ liên quan mối liên hệ giữa chlamydia trichomatis ở sự hình thành khối u ở nam giới. Nghiên cứu này báo cáo về mối liên quan ở nữ giới, trachomatis có liên quan đến nguy cơ ung thư cổ tử cung cao hơn, đồng thời tình trạng nhiễm lâu năm có thể liên quan đến sự phát triển của khối u ở cổ tử cung.
Nghiên cứu cũng giải thích mối liên hệ giữa nhiễm chlamydia và nguy cơ ung thư cổ tử cung gia tăng dựa trên thực tế nhiễm chlamydia gây phản ứng viêm trong cơ thể kích hoạt việc sản xuất cytokine, yếu tố tăng trưởng và yếu tố mạch máu, điều này có thể dẫn đến sự không ổn định về di truyền và phân bào bất thường. Các bằng chứng cho thấy nhiễm chlamydia trachomatis làm tăng nguy cơ nhiễm và duy trì HPV. Sự đồng nhiễm này làm tăng nguy cơ ung thư cổ tử cung vì sự phá vỡ biểu mô do vi khuẩn gây ra, tăng tốc độ xâm nhập của vi rút, đồng thời hệ miễn dịch suy yếu, tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển ung thư.
Theo nguyên cứu có khoảng 80% bệnh nhân ung thư buồng trứng có chẩn đoán nhiễm chlamydia. Tuy nhiên mặc dù đã có nhiều bằng chứng vẫn tồn tại một số nghiên cứu trái ngược liên quan tới chủ đề này, cần thực hiện nhiều nghiên cứu để khẳng định mối liên hệ này.
Thảo luận về triển vọng tương lai của các chương trình tầm soát chlamydia
Nghiên cứu đề xuất triển khai chương trình y tế Quốc gia nhằm tầm soát chlamydia, sử dụng công nghệ khuếch đại axit nucleic để đạt độ nhạy cao hơn.
Kết luận
Một trong những bệnh lây truyền qua đường tình dục phổ biến nhất là chlamydia, do vi khuẩn chlamydia trachomatis gây ra. Con người là vật chủ tự nhiên của vi khuẩn này, với đối tượng nhiễm chủ yếu là các tế bào biểu mô ở đường sinh sản của nam và nữ. Mặc dù phần lớn các trường hợp nhiễm chlamydia không triệu chứng, trong một số trường hợp, nhiễm trùng mãn tính có thể dẫn đến viêm vùng chậu và liên quan đến vấn đề sức khỏe nghiêm trọng như vô sinh ở cả nam giới và nữ giới và quá trình hình thành khối u ở nữ giới.
Do đó việc kiểm soát căn bệnh này và hiểu rõ thực tế các trường hợp nhiễm cũng như hậu quả lâu dài của chúng vô cùng là cần thiết. Bài tổng quan nhấn mạnh những tiến bộ hiện tại mà các Quốc gia đã đạt được sau khi triển khai chương trình tầm soát Quốc gia chlamydia, từ đó mang lại những lợi ích đáng kể về mặt sức khỏe cộng đồng và kinh tế, đồng thời giảm chi phí phát sinh các biến chứng lâu dài của bệnh.
Nghiên cứu so sánh hiệu quả của các phương pháp phát hiện chlamydia hiện có và các phương pháp đầy hứa hẹn trong tương lai, đồng thời thảo luận về cách thức biện pháp y tế dự phòng có thể góp phần, cắt đứt chuỗi lây truyền, tiến tới mục tiêu loại trừ căn bệnh này.
Chlamydia trachomatis as a Current Health Problem: Challenges and Opportunities
Rafaela Rodrigues, Carlos Sousa and NunoVale
Diagnostics 2022, 12, 1795
Các tin khác cùng chuyên mục:










HỘI VIÊN
CỘNG TÁC VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
New World Saigon hotel, thứ bảy 14 tháng 06 năm 2025 (12:00 - 16:00)
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK