Tin tức
on Wednesday 07-09-2022 3:07pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Duy Khang – IVF Vạn Hạnh
Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intracytoplasmic sperm injection - ICSI) bao gồm tiêm một tinh trùng vào trong bào tương của một noãn, nhằm cải thiện sự thụ tinh và mang thai cho các cặp vợ chồng vô sinh do yếu tố nam. Tỷ lệ thụ tinh có thể đạt 70% nhờ ICSI. Tuy nhiên, thụ tinh thất bại hoàn toàn hoặc tỷ lệ thụ tinh rất thấp xảy ra khoảng 1-5% trong số các chu kỳ ICSI. Thất bại thụ tinh do không xảy ra sự hoạt hóa noãn có thể xuất phát từ yếu tố noãn hoặc tinh trùng.
Hoạt hóa noãn nhân tạo (Artificial oocyte activation - AOA) là một phương pháp nhằm giải phóng calci nhân tạo sau ICSI. AOA có thể được thực hiện bằng nhiều cách, chẳng hạn như kích thích hóa học, cơ học hoặc vật lý. Calcium ionophores như ionomycin và calcimycin là những tác nhân hóa học phổ biến nhất được sử dụng nhằm tạo ra sự hoạt hóa noãn. Những tác nhân hóa học tăng cường giải phóng calci từ các kho dự trữ calci nội bào để điều hòa sóng calci nội bào. AOA được sử dụng chủ yếu ở bệnh nhân thất bại thụ tinh hoặc tỷ lệ thụ tinh thấp sau ICSI. Một số nghiên cứu cho thấy rằng, AOA thật sự cải thiện tỷ lệ thụ tinh ở những bệnh nhân này. Thêm vào đó, nhiều nghiên cứu khác cho thấy, gia tăng tín hiệu calci là nhân tố quan trọng để tạo ra những thay đổi về nhân và tế bào chất trong noãn đã thụ tinh. Điều này dẫn đến không chỉ sự hoạt hóa noãn mà còn khởi đầu giai đoạn sớm của quá trình phát triển phôi. Do đó, nhiều nghiên cứu cho rằng, AOA có thể cải thiện sự phát triển phôi.
Đáp ứng buồng trứng kém (Poor ovarian responders - PORs) là nhóm phụ nữ có đáp ứng kém với kích thích buồng trứng trong chu kỳ IVF. Điều trị PORs là thử thách lớn do kết cục IVF kém của họ. Định nghĩa về PORs rất khác nhau trong các nghiên cứu trước đây. Năm 2016, tiêu chuẩn POSEIDON (Patient-Oriented Strategies Encompassing Individualized Oocyte Number) đề xuất một phân loại mới cho những bệnh nhân có tiên lượng thấp nhằm ủng hộ một cách tiếp cận cá nhân hóa. POSEIDON nhóm 4 đề cập đến phụ nữ có tuổi cao và giảm dự trữ buồng trứng, những người thường có chất lượng phôi và kết cục IVF kém. Số lượng bệnh nhân POSEIDON nhóm 4 đang gia tăng và chiếm hơn một nửa số bệnh nhân của nhóm POSEIDON.
Tổng hợp lại, nhóm nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng, AOA có thể cải thiện chất lượng phôi ở bệnh nhân PORs. Rất ít nghiên cứu về vấn đề này được công bố. Do đó, một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của AOA lên chất lượng phôi ở bệnh nhân POSEIDON nhóm 4 thực hiện điều trị IVF-ICSI.
Phương pháp: 1.090 chu kỳ IVF/ICSI từ 01/2018 – 09/2020. Tiêu chí loại: bệnh nhân lớn hơn 46 tuổi, xin noãn, bệnh nhận không có noãn metaphase II. 259 bệnh nhân đáp ứng tiêu chí POSEIDON nhóm 4 (tuổi ≥ 35, AFC<5, AMH<1,2 ng/ml) được nhận vào nghiên cứu, chia vào nhóm AOA (n=91) và non-AOA (n=168).
Khoảng 4 giờ sau chọc hút, noãn được thực hiện ICSI. Noãn được ủ 15 phút với calcium ionophore trong giọt môi trường calcium inophore ngay sau ICSI. Sau đó, noãn thụ tinh được rửa hai lần và chuyển vào môi trường nuôi cấy.
Kết quả chính: tỷ lệ phân chia, tỷ lệ phôi ngày 3 chất lượng cao (top-quality Day 3 embryos – TQE). Kết quả phụ: số lượng phôi ngày 3 và số lượng phôi ngày 3 chất lượng cao. Tỷ lệ phân chia được xác định bằng số phôi ngày 3 chia cho số noãn thụ tinh.
Kết quả: Không có khác biệt đáng kể về độ tuổi, chỉ số BMI, thời gian vô sinh, chỉ số AFCs giữa hai nhóm. Tuy nhiên, tiền sử IVF nhiều lần, vô sinh nguyên phát, nồng độ FSH cơ bản cao hơn và nồng độ AMH thấp hơn ở nhóm AOA so với nhóm non-AOA.
Không có sự khác biệt đáng kể về thời gian kích thích, số lượng noãn thu được, số noãn trưởng thành, tỷ lệ thụ tinh, số lượng phôi ngày 3. Tuy nhiên, nhóm AOA cao hơn về tỷ lệ phôi phân chia (94,9 ± 28,0% so với 86,5 ± 22,8%, P = 0,018) và TQE (53,2 ± 39,1% so với 37,2 ± 42,7%, P = 0,004).
Nghiên cứu chia bệnh nhân thành 2 nhóm phụ dựa trên độ tuổi. Trong nhóm phụ tuổi ≥40, nhóm AOA cao hơn đáng kể về tỷ lệ phôi phân chia (96,3 ± 31,3% so với 86,6 ± 24,3%, P = 0,035, TQE (56,8 ± 37,7% so với 34,6 ± 37,7%, P = 0,001) cũng như tỷ lệ có hơn 1 TQE (78,9% so với 53,7%, P = 0,002) và tỷ lệ TQE ≥ 50 (64,9% so với 41,1%, P = 0,004). Tuy nhiên, ở nhóm phụ < 40 tuổi, không có sự khác biệt giữa 2 nhóm.
Bàn luận: Đây là một nghiên cứu hồi cứu tập trung vào tác động của AOA lên chất lượng phôi ở bệnh nhân POSIEDON nhóm 4 thực hiện điều trị IVF-ICSI. Nghiên cứu cho thấy, AOA với calcium inophores có liên quan đến tỷ lệ phân chia và tỷ lệ TQE cao hơn. Thêm vào đó, trong phân tích đa biến, bệnh nhân có hơn 1 TQE tăng 3,24 lần (95%; CI: 1,63– 6,45; P = 0.001) và tỷ lệ TQE ≥50 tăng 2,14 lần (95%; CI: 1,20–3,80; P = 0,001) ở POSEIDON nhóm 4 có thực hiện AOA so với non-AOA.
AOA với calcium ionophores có thể hoạt hóa noãn bằng cách tăng tính thẩm thấu của calcium trên màng tế bào và gây ra sự xâm nhập của calcium ngoại bào vào trong tế bào, dẫn đến dao động calci. Dao động calci bình thường gây ra khi protein phospholipase C zeta, có thể đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển phôi. Tín hiệu calci làm trung gian cho chu kỳ tế bào của quá trình phát triển phôi sớm. Phôi trải qua một loạt các lần phân chia tế bào sau thụ tinh.
Hạn chế của nghiên cứu: thiết kế hồi cứu và cỡ mẫu hạn chế. Các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên với cỡ mẫu lớn là cần thiết để xác minh kết quả nghiên cứu này. Tiếp theo, các đặc điểm cơ bản không tương đồng về lần thực hiện IVF trước, nguyên nhân vô sinh, chỉ số FSH và AMH cơ bản giữa nhóm AOA và non-AOA. Cuối cùng, phác đồ IVF khác nhau được sử dụng trong nghiên cứu có thể gây sai lệch. Điểm mạnh của nghiên cứu là các chu kỳ IVF được thực hiện cùng một bác sĩ và chuyên viên phôi học.
Kết luận: AOA với calcium ionophores có thể cải thiện chất lượng phôi ở bệnh nhân POSEIDON nhóm 4 điều trị IVF-ICSI, đặc biệt là bệnh nhân trên 40 tuổi.
Nguồn: Tsai, T. E., Lin, P. H., Lian, P. F. và cộng sự (2022). Artificial oocyte activation may improve embryo quality in older patients with diminished ovarian reserve undergoing IVF-ICSI cycles
Tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intracytoplasmic sperm injection - ICSI) bao gồm tiêm một tinh trùng vào trong bào tương của một noãn, nhằm cải thiện sự thụ tinh và mang thai cho các cặp vợ chồng vô sinh do yếu tố nam. Tỷ lệ thụ tinh có thể đạt 70% nhờ ICSI. Tuy nhiên, thụ tinh thất bại hoàn toàn hoặc tỷ lệ thụ tinh rất thấp xảy ra khoảng 1-5% trong số các chu kỳ ICSI. Thất bại thụ tinh do không xảy ra sự hoạt hóa noãn có thể xuất phát từ yếu tố noãn hoặc tinh trùng.
Hoạt hóa noãn nhân tạo (Artificial oocyte activation - AOA) là một phương pháp nhằm giải phóng calci nhân tạo sau ICSI. AOA có thể được thực hiện bằng nhiều cách, chẳng hạn như kích thích hóa học, cơ học hoặc vật lý. Calcium ionophores như ionomycin và calcimycin là những tác nhân hóa học phổ biến nhất được sử dụng nhằm tạo ra sự hoạt hóa noãn. Những tác nhân hóa học tăng cường giải phóng calci từ các kho dự trữ calci nội bào để điều hòa sóng calci nội bào. AOA được sử dụng chủ yếu ở bệnh nhân thất bại thụ tinh hoặc tỷ lệ thụ tinh thấp sau ICSI. Một số nghiên cứu cho thấy rằng, AOA thật sự cải thiện tỷ lệ thụ tinh ở những bệnh nhân này. Thêm vào đó, nhiều nghiên cứu khác cho thấy, gia tăng tín hiệu calci là nhân tố quan trọng để tạo ra những thay đổi về nhân và tế bào chất trong noãn đã thụ tinh. Điều này dẫn đến không chỉ sự hoạt hóa noãn mà còn khởi đầu giai đoạn sớm của quá trình phát triển phôi. Do đó, nhiều nghiên cứu cho rằng, AOA có thể cải thiện sự phát triển phôi.
Đáp ứng buồng trứng kém (Poor ovarian responders - PORs) là nhóm phụ nữ có đáp ứng kém với kích thích buồng trứng trong chu kỳ IVF. Điều trị PORs là thử thách lớn do kết cục IVF kém của họ. Định nghĩa về PORs rất khác nhau trong các nghiên cứu trước đây. Năm 2016, tiêu chuẩn POSEIDON (Patient-Oriented Strategies Encompassing Individualized Oocyte Number) đề xuất một phân loại mới cho những bệnh nhân có tiên lượng thấp nhằm ủng hộ một cách tiếp cận cá nhân hóa. POSEIDON nhóm 4 đề cập đến phụ nữ có tuổi cao và giảm dự trữ buồng trứng, những người thường có chất lượng phôi và kết cục IVF kém. Số lượng bệnh nhân POSEIDON nhóm 4 đang gia tăng và chiếm hơn một nửa số bệnh nhân của nhóm POSEIDON.
Tổng hợp lại, nhóm nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng, AOA có thể cải thiện chất lượng phôi ở bệnh nhân PORs. Rất ít nghiên cứu về vấn đề này được công bố. Do đó, một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của AOA lên chất lượng phôi ở bệnh nhân POSEIDON nhóm 4 thực hiện điều trị IVF-ICSI.
Phương pháp: 1.090 chu kỳ IVF/ICSI từ 01/2018 – 09/2020. Tiêu chí loại: bệnh nhân lớn hơn 46 tuổi, xin noãn, bệnh nhận không có noãn metaphase II. 259 bệnh nhân đáp ứng tiêu chí POSEIDON nhóm 4 (tuổi ≥ 35, AFC<5, AMH<1,2 ng/ml) được nhận vào nghiên cứu, chia vào nhóm AOA (n=91) và non-AOA (n=168).
Khoảng 4 giờ sau chọc hút, noãn được thực hiện ICSI. Noãn được ủ 15 phút với calcium ionophore trong giọt môi trường calcium inophore ngay sau ICSI. Sau đó, noãn thụ tinh được rửa hai lần và chuyển vào môi trường nuôi cấy.
Kết quả chính: tỷ lệ phân chia, tỷ lệ phôi ngày 3 chất lượng cao (top-quality Day 3 embryos – TQE). Kết quả phụ: số lượng phôi ngày 3 và số lượng phôi ngày 3 chất lượng cao. Tỷ lệ phân chia được xác định bằng số phôi ngày 3 chia cho số noãn thụ tinh.
Kết quả: Không có khác biệt đáng kể về độ tuổi, chỉ số BMI, thời gian vô sinh, chỉ số AFCs giữa hai nhóm. Tuy nhiên, tiền sử IVF nhiều lần, vô sinh nguyên phát, nồng độ FSH cơ bản cao hơn và nồng độ AMH thấp hơn ở nhóm AOA so với nhóm non-AOA.
Không có sự khác biệt đáng kể về thời gian kích thích, số lượng noãn thu được, số noãn trưởng thành, tỷ lệ thụ tinh, số lượng phôi ngày 3. Tuy nhiên, nhóm AOA cao hơn về tỷ lệ phôi phân chia (94,9 ± 28,0% so với 86,5 ± 22,8%, P = 0,018) và TQE (53,2 ± 39,1% so với 37,2 ± 42,7%, P = 0,004).
Nghiên cứu chia bệnh nhân thành 2 nhóm phụ dựa trên độ tuổi. Trong nhóm phụ tuổi ≥40, nhóm AOA cao hơn đáng kể về tỷ lệ phôi phân chia (96,3 ± 31,3% so với 86,6 ± 24,3%, P = 0,035, TQE (56,8 ± 37,7% so với 34,6 ± 37,7%, P = 0,001) cũng như tỷ lệ có hơn 1 TQE (78,9% so với 53,7%, P = 0,002) và tỷ lệ TQE ≥ 50 (64,9% so với 41,1%, P = 0,004). Tuy nhiên, ở nhóm phụ < 40 tuổi, không có sự khác biệt giữa 2 nhóm.
Bàn luận: Đây là một nghiên cứu hồi cứu tập trung vào tác động của AOA lên chất lượng phôi ở bệnh nhân POSIEDON nhóm 4 thực hiện điều trị IVF-ICSI. Nghiên cứu cho thấy, AOA với calcium inophores có liên quan đến tỷ lệ phân chia và tỷ lệ TQE cao hơn. Thêm vào đó, trong phân tích đa biến, bệnh nhân có hơn 1 TQE tăng 3,24 lần (95%; CI: 1,63– 6,45; P = 0.001) và tỷ lệ TQE ≥50 tăng 2,14 lần (95%; CI: 1,20–3,80; P = 0,001) ở POSEIDON nhóm 4 có thực hiện AOA so với non-AOA.
AOA với calcium ionophores có thể hoạt hóa noãn bằng cách tăng tính thẩm thấu của calcium trên màng tế bào và gây ra sự xâm nhập của calcium ngoại bào vào trong tế bào, dẫn đến dao động calci. Dao động calci bình thường gây ra khi protein phospholipase C zeta, có thể đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển phôi. Tín hiệu calci làm trung gian cho chu kỳ tế bào của quá trình phát triển phôi sớm. Phôi trải qua một loạt các lần phân chia tế bào sau thụ tinh.
Hạn chế của nghiên cứu: thiết kế hồi cứu và cỡ mẫu hạn chế. Các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên với cỡ mẫu lớn là cần thiết để xác minh kết quả nghiên cứu này. Tiếp theo, các đặc điểm cơ bản không tương đồng về lần thực hiện IVF trước, nguyên nhân vô sinh, chỉ số FSH và AMH cơ bản giữa nhóm AOA và non-AOA. Cuối cùng, phác đồ IVF khác nhau được sử dụng trong nghiên cứu có thể gây sai lệch. Điểm mạnh của nghiên cứu là các chu kỳ IVF được thực hiện cùng một bác sĩ và chuyên viên phôi học.
Kết luận: AOA với calcium ionophores có thể cải thiện chất lượng phôi ở bệnh nhân POSEIDON nhóm 4 điều trị IVF-ICSI, đặc biệt là bệnh nhân trên 40 tuổi.
Nguồn: Tsai, T. E., Lin, P. H., Lian, P. F. và cộng sự (2022). Artificial oocyte activation may improve embryo quality in older patients with diminished ovarian reserve undergoing IVF-ICSI cycles
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tự động hóa trong ART: mở đường cho tương lai của điều trị vô sinh - Ngày đăng: 20-08-2024
Rối loạn chức năng ty thể trong tế bào hạt có liên quan đến giảm khả năng sinh sản ở phụ nữ cao tuổi - Ngày đăng: 07-09-2022
Đánh giá khả năng tiên đoán tạo phôi nang chất lượng tốt của Aminopeptidase N từ tinh trùng trong các chu kỳ sử dụng noãn hiến tặng - Ngày đăng: 07-09-2022
Bổ sung progesterone trong chu kỳ tự nhiên giúp cải thiện tỷ lệ trẻ sinh sống sau khi chuyển phôi trữ lạnh- một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng - Ngày đăng: 07-09-2022
Mối tương quan giữa gia tốc tuổi sinh sản trong tế bào hạt và các chỉ số đánh giá dự trữ buồng trứng ở bệnh nhân thụ tinh ống nghiệm - Ngày đăng: 07-09-2022
Mối liên quan giữa thời gian lưu trữ phôi và sự thành công trong điều trị ở những bệnh nhân được chỉ định trữ phôi toàn bộ và chuyển phôi trữ sau đó - Ngày đăng: 07-09-2022
Cầu nối liên kết giữa khối tế bào bên trong và tế bào lá nuôi ở phôi nang là yếu tố tiên lượng cho kết quả lâm sàng và em bé sinh: Một nghiên cứu dựa trên time-lapse - Ngày đăng: 04-09-2022
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong nhận diện phôi: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 04-09-2022
Khuynh hướng mới trong phân loại và chẩn đoán hội chứng buồng trứng đa nang - Ngày đăng: 04-09-2022
Kết cục sinh sản của hoạt hóa noãn nhân tạo sau ICSI ở bệnh nhân chuyển phôi nang: Một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu 6 năm - Ngày đăng: 29-08-2022
HOẠT ĐỘNG
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, Chủ Nhật ngày 12 . 01 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK