Tin tức
on Wednesday 07-09-2022 2:58pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH Tăng Lê Thái Ngọc – IVFMD Tân Bình
Giới thiệu chung
Vô sinh là một vấn đề sức khỏe lớn ở Hoa Kỳ với 2% trẻ sơ sinh được sinh ra nhờ vào các phương pháp hỗ trợ sinh sản, bao gồm cả thụ tinh ống nghiệm. Ngoài ra, nhiều nghiên cứu đã chứng minh có một sự sụt giảm tỷ lệ trẻ sinh sống rõ ràng trong các chu kỳ IVF khi tuổi sinh sản tăng dần. Sự suy giảm này chủ yếu là do giảm số lượng và chất lượng noãn (giảm dự trữ buồng trứng) khi phụ nữ ngày càng lớn tuổi. Sự suy giảm liên quan đến tuổi tác xảy ra với các tỷ lệ khác nhau và được ước tính bằng nồng độ hormone AMH. Hormone AMH được tiết ra bởi các tế bào hạt trong các nang tiền hốc và có hốc, đây là chất đóng vai trò phản ánh khả năng dự trữ còn lại của buồng trứng và diễn tiến của lão hóa buồng trứng. Dự trữ buồng trứng cũng được đánh giá thông qua số lượng nang thứ cấp (AFC) từ siêu âm qua ngã âm đạo và có liên quan đến khả năng đáp ứng của buồng trứng với kích thích buồng trứng, cũng như tiên lượng số lượng noãn thu được. Tuy nhiên, cả hai xét nghiệm trên lại không có tính nhất quán và không thể dự đoán chính xác khả năng mang thai và cơ hội có trẻ sinh sống. Trong khi đó, tuổi tác vẫn là yếu tố dự báo đem lại nhiều thông tin nhất về sự thành công của IVF mặc dù có sự khác biệt đáng kể về độ tuổi đánh dấu sự suy giảm khả năng sinh sản ở phụ nữ. Sự chênh lệch này có thể do sự khác biệt giữa tuổi sinh học của phụ nữ ở cấp độ tế bào và tuổi theo thời gian của họ. Những khác biệt này phát sinh dựa trên môi trường sống và đặc điểm sức khỏe của phụ nữ. Một cách để định lượng những khác biệt về tuổi sinh học là thông qua việc sử dụng đồng hồ biểu sinh.
Đồng hồ biểu sinh được xây dựng dựa trên sự methyl hóa DNA - một yếu tố có thể thay đổi theo độ tuổi. Quá trình methyl hóa DNA cũng phản ứng lại với những thay đổi của môi trường và giúp điều chỉnh sự biểu hiện của gen cho phù hợp. Những đặc điểm này đã khiến sự methyl hóa DNA trở thành ứng viên tốt cho dự đoán tuổi sinh học. Đồng hồ biểu sinh đầu tiên được xây dựng vào năm 2013 của Horvath có thể dự đoán tuổi trong vòng 3 năm ở một loạt các mô và loại tế bào. Một nghiên cứu sâu hơn đã mang đến đồng hồ biểu sinh thế hệ thứ hai kết hợp các thông số lâm sàng trong quá trình phát triển, cho phép chúng đánh giá tuổi sinh học tốt hơn trong các kết quả liên quan đến sức khỏe. Đánh giá này dựa trên các tính toán về gia tốc tuổi, đây là sự khác biệt giữa tuổi dự đoán (tuổi methyl hóa DNA) và tuổi theo thời gian. Cũng được đề cập trong nghiên cứu trên, việc tăng gia tốc tuổi thường liên quan đến các kết cục tiêu cực của sức khỏe, chẳng hạn như bệnh tim mạch và ung thư, trong khi giảm gia tốc tuổi liên quan đến các lựa chọn lối sống lành mạnh, chẳng hạn như tập thể dục. Mối quan hệ giữa gia tốc tuổi và già hóa sinh sản chỉ mới bắt đầu được khám phá. Trong một nghiên cứu thí điểm nhỏ, Monseur và cộng sự đã kiểm tra xem gia tốc tuổi trong máu có liên quan đến các chỉ số về dự trữ buồng trứng thấp trước khi mãn kinh hay không. Họ phát hiện ra rằng gia tốc tuổi có liên quan đến giá trị AMH thấp hơn và số lượng noãn thu nhận được thấp hơn. Điều này cho thấy rằng gia tốc tuổi có thể là một thử nghiệm lâm sàng hữu ích về dự trữ buồng trứng và có liên quan đến quá trình lão hóa sinh sản và sự thành công của IVF.
Do quá trình methyl hóa DNA là đặc trưng cho mô, nên việc đánh giá các tế bào sinh sản có thể cung cấp thêm thông tin về tuổi sinh sản cơ bản. Tế bào hạt được biệt hóa để thúc đẩy và hỗ trợ sự phát triển của noãn, làm cho chúng trở thành một mô lý tưởng cho các nghiên cứu về lão hóa sinh sản. Do đó, nghiên cứu này đã được thực hiện để đánh giá mối liên hệ của sự lão hóa tế bào hạt thông qua gia tốc tuổi biểu sinh với các dấu hiệu dự trữ buồng trứng và kết quả IVF.
Phương pháp
Tổng cộng có 70 phụ nữ được tuyển chọn cho nghiên cứu này tại một trung tâm y tế và mẫu dịch nang của họ được cung cấp tại thời điểm lấy noãn. Tế bào hạt được phân lập và đánh giá trên MethylationEPIC array. Hồi quy tuyến tính được sử dụng để đánh giá mối liên quan giữa các dự đoán tuổi dựa trên sự methyl hóa DNA từ các tế bào hạt và tuổi theo thời gian. Gia tốc tuổi được tính bằng phần dư của việc hồi quy tuổi dựa trên quá trình methyl hóa DNA và tuổi thời gian. Cuối cùng, hồi quy tuyến tính được sử dụng để xác định mối liên quan giữa gia tốc tuổi và các dấu hiệu của dự trữ buồng trứng và kết quả chu kỳ IVF.
Kết quả chính
Những người tham gia có tuổi trung bình là 36,7. Về chủng tộc, 54% là người da trắng, 19% là người Mỹ gốc Phi và 27% là người thuộc gốc khác. Gia tốc tuổi được phân bố bình thường và không liên quan đến tuổi theo thời gian. Gia tốc tuổi có tương quan nghịch với mức AMH (t = - 3,1, P = 0,003) và AFC (t = - 4,0, P = 0,0001), do đó phụ nữ tăng gia tốc tuổi cao hơn có dự trữ buồng trứng thấp hơn. Gia tốc tuổi cũng tương quan nghịch với tổng số noãn thu được (t = - 3,9, P = 0,0002), số lượng noãn trưởng thành (t = - 3,8, P = 0,0003) và số lượng noãn đã thụ tinh hoặc noãn hai tiền nhân (t = - 2,8, P = 0,008).
Kết luận
Gia tốc tuổi có liên quan đến nồng độ hormone AMH, chỉ số AFC, số lượng và sự trưởng thành của noãn được thu nhận và số lượng noãn thụ tinh thành công. Nghiên cứu này đã chứng minh rằng tuổi biểu sinh và gia tốc tuổi có thể được tính toán từ các tế bào hạt thu nhận tại thời điểm lấy noãn. Nhóm tác giả cũng đề xuất các hướng nghiên cứu trong tương lai sẽ bao gồm việc đánh giá các mối liên quan của gia tốc tuổi với kết quả mang thai lâu dài và sử dụng các tế bào hạt có nguồn gốc từ các nang đơn để dự đoán thêm về chất lượng noãn.
Nguồn: Knight, A. K., et al. "Markers of ovarian reserve are associated with reproductive age acceleration in granulosa cells from IVF patients." Human Reproduction (2022).
Giới thiệu chung
Vô sinh là một vấn đề sức khỏe lớn ở Hoa Kỳ với 2% trẻ sơ sinh được sinh ra nhờ vào các phương pháp hỗ trợ sinh sản, bao gồm cả thụ tinh ống nghiệm. Ngoài ra, nhiều nghiên cứu đã chứng minh có một sự sụt giảm tỷ lệ trẻ sinh sống rõ ràng trong các chu kỳ IVF khi tuổi sinh sản tăng dần. Sự suy giảm này chủ yếu là do giảm số lượng và chất lượng noãn (giảm dự trữ buồng trứng) khi phụ nữ ngày càng lớn tuổi. Sự suy giảm liên quan đến tuổi tác xảy ra với các tỷ lệ khác nhau và được ước tính bằng nồng độ hormone AMH. Hormone AMH được tiết ra bởi các tế bào hạt trong các nang tiền hốc và có hốc, đây là chất đóng vai trò phản ánh khả năng dự trữ còn lại của buồng trứng và diễn tiến của lão hóa buồng trứng. Dự trữ buồng trứng cũng được đánh giá thông qua số lượng nang thứ cấp (AFC) từ siêu âm qua ngã âm đạo và có liên quan đến khả năng đáp ứng của buồng trứng với kích thích buồng trứng, cũng như tiên lượng số lượng noãn thu được. Tuy nhiên, cả hai xét nghiệm trên lại không có tính nhất quán và không thể dự đoán chính xác khả năng mang thai và cơ hội có trẻ sinh sống. Trong khi đó, tuổi tác vẫn là yếu tố dự báo đem lại nhiều thông tin nhất về sự thành công của IVF mặc dù có sự khác biệt đáng kể về độ tuổi đánh dấu sự suy giảm khả năng sinh sản ở phụ nữ. Sự chênh lệch này có thể do sự khác biệt giữa tuổi sinh học của phụ nữ ở cấp độ tế bào và tuổi theo thời gian của họ. Những khác biệt này phát sinh dựa trên môi trường sống và đặc điểm sức khỏe của phụ nữ. Một cách để định lượng những khác biệt về tuổi sinh học là thông qua việc sử dụng đồng hồ biểu sinh.
Đồng hồ biểu sinh được xây dựng dựa trên sự methyl hóa DNA - một yếu tố có thể thay đổi theo độ tuổi. Quá trình methyl hóa DNA cũng phản ứng lại với những thay đổi của môi trường và giúp điều chỉnh sự biểu hiện của gen cho phù hợp. Những đặc điểm này đã khiến sự methyl hóa DNA trở thành ứng viên tốt cho dự đoán tuổi sinh học. Đồng hồ biểu sinh đầu tiên được xây dựng vào năm 2013 của Horvath có thể dự đoán tuổi trong vòng 3 năm ở một loạt các mô và loại tế bào. Một nghiên cứu sâu hơn đã mang đến đồng hồ biểu sinh thế hệ thứ hai kết hợp các thông số lâm sàng trong quá trình phát triển, cho phép chúng đánh giá tuổi sinh học tốt hơn trong các kết quả liên quan đến sức khỏe. Đánh giá này dựa trên các tính toán về gia tốc tuổi, đây là sự khác biệt giữa tuổi dự đoán (tuổi methyl hóa DNA) và tuổi theo thời gian. Cũng được đề cập trong nghiên cứu trên, việc tăng gia tốc tuổi thường liên quan đến các kết cục tiêu cực của sức khỏe, chẳng hạn như bệnh tim mạch và ung thư, trong khi giảm gia tốc tuổi liên quan đến các lựa chọn lối sống lành mạnh, chẳng hạn như tập thể dục. Mối quan hệ giữa gia tốc tuổi và già hóa sinh sản chỉ mới bắt đầu được khám phá. Trong một nghiên cứu thí điểm nhỏ, Monseur và cộng sự đã kiểm tra xem gia tốc tuổi trong máu có liên quan đến các chỉ số về dự trữ buồng trứng thấp trước khi mãn kinh hay không. Họ phát hiện ra rằng gia tốc tuổi có liên quan đến giá trị AMH thấp hơn và số lượng noãn thu nhận được thấp hơn. Điều này cho thấy rằng gia tốc tuổi có thể là một thử nghiệm lâm sàng hữu ích về dự trữ buồng trứng và có liên quan đến quá trình lão hóa sinh sản và sự thành công của IVF.
Do quá trình methyl hóa DNA là đặc trưng cho mô, nên việc đánh giá các tế bào sinh sản có thể cung cấp thêm thông tin về tuổi sinh sản cơ bản. Tế bào hạt được biệt hóa để thúc đẩy và hỗ trợ sự phát triển của noãn, làm cho chúng trở thành một mô lý tưởng cho các nghiên cứu về lão hóa sinh sản. Do đó, nghiên cứu này đã được thực hiện để đánh giá mối liên hệ của sự lão hóa tế bào hạt thông qua gia tốc tuổi biểu sinh với các dấu hiệu dự trữ buồng trứng và kết quả IVF.
Phương pháp
Tổng cộng có 70 phụ nữ được tuyển chọn cho nghiên cứu này tại một trung tâm y tế và mẫu dịch nang của họ được cung cấp tại thời điểm lấy noãn. Tế bào hạt được phân lập và đánh giá trên MethylationEPIC array. Hồi quy tuyến tính được sử dụng để đánh giá mối liên quan giữa các dự đoán tuổi dựa trên sự methyl hóa DNA từ các tế bào hạt và tuổi theo thời gian. Gia tốc tuổi được tính bằng phần dư của việc hồi quy tuổi dựa trên quá trình methyl hóa DNA và tuổi thời gian. Cuối cùng, hồi quy tuyến tính được sử dụng để xác định mối liên quan giữa gia tốc tuổi và các dấu hiệu của dự trữ buồng trứng và kết quả chu kỳ IVF.
Kết quả chính
Những người tham gia có tuổi trung bình là 36,7. Về chủng tộc, 54% là người da trắng, 19% là người Mỹ gốc Phi và 27% là người thuộc gốc khác. Gia tốc tuổi được phân bố bình thường và không liên quan đến tuổi theo thời gian. Gia tốc tuổi có tương quan nghịch với mức AMH (t = - 3,1, P = 0,003) và AFC (t = - 4,0, P = 0,0001), do đó phụ nữ tăng gia tốc tuổi cao hơn có dự trữ buồng trứng thấp hơn. Gia tốc tuổi cũng tương quan nghịch với tổng số noãn thu được (t = - 3,9, P = 0,0002), số lượng noãn trưởng thành (t = - 3,8, P = 0,0003) và số lượng noãn đã thụ tinh hoặc noãn hai tiền nhân (t = - 2,8, P = 0,008).
Kết luận
Gia tốc tuổi có liên quan đến nồng độ hormone AMH, chỉ số AFC, số lượng và sự trưởng thành của noãn được thu nhận và số lượng noãn thụ tinh thành công. Nghiên cứu này đã chứng minh rằng tuổi biểu sinh và gia tốc tuổi có thể được tính toán từ các tế bào hạt thu nhận tại thời điểm lấy noãn. Nhóm tác giả cũng đề xuất các hướng nghiên cứu trong tương lai sẽ bao gồm việc đánh giá các mối liên quan của gia tốc tuổi với kết quả mang thai lâu dài và sử dụng các tế bào hạt có nguồn gốc từ các nang đơn để dự đoán thêm về chất lượng noãn.
Nguồn: Knight, A. K., et al. "Markers of ovarian reserve are associated with reproductive age acceleration in granulosa cells from IVF patients." Human Reproduction (2022).
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mối liên quan giữa thời gian lưu trữ phôi và sự thành công trong điều trị ở những bệnh nhân được chỉ định trữ phôi toàn bộ và chuyển phôi trữ sau đó - Ngày đăng: 07-09-2022
Cầu nối liên kết giữa khối tế bào bên trong và tế bào lá nuôi ở phôi nang là yếu tố tiên lượng cho kết quả lâm sàng và em bé sinh: Một nghiên cứu dựa trên time-lapse - Ngày đăng: 04-09-2022
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong nhận diện phôi: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 04-09-2022
Khuynh hướng mới trong phân loại và chẩn đoán hội chứng buồng trứng đa nang - Ngày đăng: 04-09-2022
Kết cục sinh sản của hoạt hóa noãn nhân tạo sau ICSI ở bệnh nhân chuyển phôi nang: Một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu 6 năm - Ngày đăng: 29-08-2022
Tác động của quá trình trữ lạnh phôi bằng phương pháp thủy tinh hóa đối với các đặc điểm mô bệnh học của nhau thai và kết quả chu sinh ở các trường hợp sinh đơn thai - Ngày đăng: 29-08-2022
Mối tương quan giữa sự methyl hoá DNA tinh trùng với tuổi nam giới và kết quả điều trị hỗ trợ sinh sản. - Ngày đăng: 24-08-2022
Sự mất chức năng của biến thể SSFA2 gây tinh trùng đầu tròn (Globozoospermia) và thất bại trong hoạt hóa noãn ở nam giới vô sinh - Ngày đăng: 24-08-2022
Bản chất tế bào và phân tử của hiện tượng phân mảnh ở phôi người - Ngày đăng: 24-08-2022
Lắng đọng khối fibrin (MPVFD) trong nhau thai và kết quả thai - Ngày đăng: 22-08-2022
HOẠT ĐỘNG
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, Chủ Nhật ngày 12 . 01 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK