Tin tức
on Sunday 04-09-2022 4:11am
Danh mục: Tin quốc tế
Nguyễn Thị Liên Thi – IVFMD FAMILY
Cầu nối liên kết (sợi bào tương - Cytoplasmic string) giữa các tế bào của khối tế bào bên trong (Inner cell mass - ICM) và tế bào lá nuôi (Trophectoderm cell -TE) thường được quan sát thấy ở giai đoạn phôi nang. Các sợi bào tương này có thể được hình thành do sự phân cực của tế bào TE trong quá trình di chuyển về phía đối diện (Hình 1). Các sợi này có thể co giãn trong quá trình phân chia của phôi bào, bên cạnh đó, các sợi liên kết này còn nhận tín hiệu phân bào cần thiết từ ICM, là cầu nối cho sự giao tiếp giữa TE và các tế bào ICM, và do đó có lợi cho sự phát triển của phôi.
Hình 1: Phân nhóm phôi dựa trên số lượng sợi bào tương trong nghiên cứu
Việc lựa chọn phôi nang thường dựa trên các đặc điểm hình thái của ICM và TE được đánh giá theo hệ thống Gardner. Tuy nhiên, một số đặc điểm hình thái khác của phôi có thể bị bỏ qua. Mặc dù vẫn chưa được hiểu rõ về tầm quan trọng và không được xem là một tiêu chí để đánh giá chất lượng phôi, sợi liên kết giữa các tế bào và các loại tế bào khác nhau đã được giới thiệu trong đồng thuận đánh giá phôi Istanbul.
Trong một nghiên cứu mới được công bố trên Front Med (Lausanne), nhóm nghiên cứu của Ma và cộng sự (2022) đã so sánh kết quả chuyển các phôi có hoặc không có sự xuất hiện của các sợi bào tương này trên 1267 chu kỳ chuyển phôi trữ đơn phôi. Trong nghiên cứu này, 1002 chu kỳ (79,08%) chuyển phôi có sự xuất hiện của sợi bào tương (nhóm nghiên cứu) và 265 chu kỳ (20,92%) chuyển phôi không có đặc điểm này (nhóm đối chứng).
Ở nhóm nghiên cứu, phôi được phân loại theo số lượng sợi: loại 1 gồm một hoặc hai sợi (572 phôi, chiếm 57,09%); loại 2 gồm ba hoặc bốn sợi (366 phôi, chiếm 36,53%) và 64 phôi ở nhóm loại 3 có từ năm sợi trở lên (chiếm tỷ lệ 6,39%).
Tất cả các phôi được nuôi cấy với hệ thống time-lapse và đánh giá theo tiêu chuẩn Gardner. Bệnh nhân trong hai nhóm tương đồng về các đặc điểm lâm sàng và kết quả thụ tinh.
Kết quả nghiên cứu cho thấy các sợi bào tương xuất hiện nhiều ở các phôi nang có chất lượng tốt. Các phôi có sự xuất hiện của sợi bào tương có tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống cao hơn so với nhóm đối chứng (59,1% so với 48,2%, p=0,011 và 48,5% so với 35,5%, p=0,003), không có sự khác biệt đáng kể nào về tỷ lệ sẩy thai và trọng lượng trẻ sơ sinh giữa hai nhóm.
Ở nhóm chuyển phôi có sự xuất hiện của sợi bào tương, tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống của phân nhóm III cao hơn đáng kể so với hai phân nhóm còn lại (78,1% so với 50,7% và 39,9%). Đối với kết quả chu sinh, cân nặng trẻ sơ sinh của các nhóm không khác biệt đáng kể.
Đây là nghiên cứu đầu tiên cung cấp bằng chứng cho thấy cầu nối liên kết giữa các tế bào ICM và TE là một yếu tố tiên lượng hiệu quả về tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống trong các chu kỳ chuyển phôi trữ đơn phôi. Tần suất xuất hiện hiện của các sợi bào tương nhiều ở các phôi có ICM và TE tốt cho thấy đây có thể là dấu hiệu của phôi nang chất lượng tốt. Điều này có thể do sự tăng cường liên kết giữa các tế bào ICM và TE. Do đó, cần có thêm những nghiên cứu sâu hơn để khám phá cơ chế tác động của các cầu nối lên kết này đến kết cục lâm sàng và chu sinh. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng có một số điểm hạn chế. Một số phôi nang được đánh giá khi chưa nở rộng hoàn toàn, dẫn đến các sợi bào tương chưa được quan sát rõ hoàn toàn. Bên cạnh đó, ở những phôi nang được thủy tinh hóa sớm có thể chưa có sự xuất hiện của các sợi bào tương.
Nguồn: Ma BX, Yang L, Tian Y, Jin L, Huang B. Cytoplasmic strings between ICM and mTE are a positive predictor of clinical pregnancy and live birth outcomes: A time-lapse study. Front Med (Lausanne). 2022 Jul 28;9:934327. doi: 10.3389/fmed.2022.934327.
Cầu nối liên kết (sợi bào tương - Cytoplasmic string) giữa các tế bào của khối tế bào bên trong (Inner cell mass - ICM) và tế bào lá nuôi (Trophectoderm cell -TE) thường được quan sát thấy ở giai đoạn phôi nang. Các sợi bào tương này có thể được hình thành do sự phân cực của tế bào TE trong quá trình di chuyển về phía đối diện (Hình 1). Các sợi này có thể co giãn trong quá trình phân chia của phôi bào, bên cạnh đó, các sợi liên kết này còn nhận tín hiệu phân bào cần thiết từ ICM, là cầu nối cho sự giao tiếp giữa TE và các tế bào ICM, và do đó có lợi cho sự phát triển của phôi.
Hình 1: Phân nhóm phôi dựa trên số lượng sợi bào tương trong nghiên cứu
Việc lựa chọn phôi nang thường dựa trên các đặc điểm hình thái của ICM và TE được đánh giá theo hệ thống Gardner. Tuy nhiên, một số đặc điểm hình thái khác của phôi có thể bị bỏ qua. Mặc dù vẫn chưa được hiểu rõ về tầm quan trọng và không được xem là một tiêu chí để đánh giá chất lượng phôi, sợi liên kết giữa các tế bào và các loại tế bào khác nhau đã được giới thiệu trong đồng thuận đánh giá phôi Istanbul.
Trong một nghiên cứu mới được công bố trên Front Med (Lausanne), nhóm nghiên cứu của Ma và cộng sự (2022) đã so sánh kết quả chuyển các phôi có hoặc không có sự xuất hiện của các sợi bào tương này trên 1267 chu kỳ chuyển phôi trữ đơn phôi. Trong nghiên cứu này, 1002 chu kỳ (79,08%) chuyển phôi có sự xuất hiện của sợi bào tương (nhóm nghiên cứu) và 265 chu kỳ (20,92%) chuyển phôi không có đặc điểm này (nhóm đối chứng).
Ở nhóm nghiên cứu, phôi được phân loại theo số lượng sợi: loại 1 gồm một hoặc hai sợi (572 phôi, chiếm 57,09%); loại 2 gồm ba hoặc bốn sợi (366 phôi, chiếm 36,53%) và 64 phôi ở nhóm loại 3 có từ năm sợi trở lên (chiếm tỷ lệ 6,39%).
Tất cả các phôi được nuôi cấy với hệ thống time-lapse và đánh giá theo tiêu chuẩn Gardner. Bệnh nhân trong hai nhóm tương đồng về các đặc điểm lâm sàng và kết quả thụ tinh.
Kết quả nghiên cứu cho thấy các sợi bào tương xuất hiện nhiều ở các phôi nang có chất lượng tốt. Các phôi có sự xuất hiện của sợi bào tương có tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống cao hơn so với nhóm đối chứng (59,1% so với 48,2%, p=0,011 và 48,5% so với 35,5%, p=0,003), không có sự khác biệt đáng kể nào về tỷ lệ sẩy thai và trọng lượng trẻ sơ sinh giữa hai nhóm.
Ở nhóm chuyển phôi có sự xuất hiện của sợi bào tương, tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống của phân nhóm III cao hơn đáng kể so với hai phân nhóm còn lại (78,1% so với 50,7% và 39,9%). Đối với kết quả chu sinh, cân nặng trẻ sơ sinh của các nhóm không khác biệt đáng kể.
Đây là nghiên cứu đầu tiên cung cấp bằng chứng cho thấy cầu nối liên kết giữa các tế bào ICM và TE là một yếu tố tiên lượng hiệu quả về tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống trong các chu kỳ chuyển phôi trữ đơn phôi. Tần suất xuất hiện hiện của các sợi bào tương nhiều ở các phôi có ICM và TE tốt cho thấy đây có thể là dấu hiệu của phôi nang chất lượng tốt. Điều này có thể do sự tăng cường liên kết giữa các tế bào ICM và TE. Do đó, cần có thêm những nghiên cứu sâu hơn để khám phá cơ chế tác động của các cầu nối lên kết này đến kết cục lâm sàng và chu sinh. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng có một số điểm hạn chế. Một số phôi nang được đánh giá khi chưa nở rộng hoàn toàn, dẫn đến các sợi bào tương chưa được quan sát rõ hoàn toàn. Bên cạnh đó, ở những phôi nang được thủy tinh hóa sớm có thể chưa có sự xuất hiện của các sợi bào tương.
Nguồn: Ma BX, Yang L, Tian Y, Jin L, Huang B. Cytoplasmic strings between ICM and mTE are a positive predictor of clinical pregnancy and live birth outcomes: A time-lapse study. Front Med (Lausanne). 2022 Jul 28;9:934327. doi: 10.3389/fmed.2022.934327.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong nhận diện phôi: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 04-09-2022
Khuynh hướng mới trong phân loại và chẩn đoán hội chứng buồng trứng đa nang - Ngày đăng: 04-09-2022
Kết cục sinh sản của hoạt hóa noãn nhân tạo sau ICSI ở bệnh nhân chuyển phôi nang: Một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu 6 năm - Ngày đăng: 29-08-2022
Tác động của quá trình trữ lạnh phôi bằng phương pháp thủy tinh hóa đối với các đặc điểm mô bệnh học của nhau thai và kết quả chu sinh ở các trường hợp sinh đơn thai - Ngày đăng: 29-08-2022
Mối tương quan giữa sự methyl hoá DNA tinh trùng với tuổi nam giới và kết quả điều trị hỗ trợ sinh sản. - Ngày đăng: 24-08-2022
Sự mất chức năng của biến thể SSFA2 gây tinh trùng đầu tròn (Globozoospermia) và thất bại trong hoạt hóa noãn ở nam giới vô sinh - Ngày đăng: 24-08-2022
Bản chất tế bào và phân tử của hiện tượng phân mảnh ở phôi người - Ngày đăng: 24-08-2022
Lắng đọng khối fibrin (MPVFD) trong nhau thai và kết quả thai - Ngày đăng: 22-08-2022
Thụ tinh ống nghiệm tại các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình: một phân tích tổng quan hệ thống - Ngày đăng: 19-08-2022
HOẠT ĐỘNG
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, Chủ Nhật ngày 12 . 01 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK