Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Monday 20-09-2021 2:46pm
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

CNSH. Phạm Thị Kim Ngân - IVFMD Tân Bình

Tình trạng nghiêm trọng nhất của vô sinh nam là vô tinh không do tắc (non‐obstructive azoospermia - NOA), trong đó quá trình sinh tinh bị suy giảm nghiêm trọng hoặc không thể diễn ra (Westlander G và cs, 2019). NOA chiếm khoảng 60% trong nhóm vô tinh, nguyên nhân có thể do bẩm sinh người nam có bất thường về nhiễm sắc thể (hội chứng Klinefelter) hoặc do gene (đột biến mất đoạn nhỏ gene trên nhiễm sắc thể Y); hoặc có thể mắc phải trong quá trình sống như trải qua điều trị ung thư bằng hóa trị hay xạ trị, …; hoặc không rõ nguyên nhân (Willott GM., 1982). Ở một số bệnh nhân NOA, quá trình sản xuất tinh trùng chưa mất hẳn mà đang ở giai đoạn giảm sinh tinh nặng, một số vùng trong tinh hoàn vẫn còn khả năng có tinh trùng. Trong những trường hợp này, phương pháp vi phẫu (micro-TESE) có thể được áp dụng để thu nhận các vùng tiềm năng với các ống sinh tinh có nhiều khả năng chứa tinh trùng (Devroey P và cs, 1995; Schlegel PN và cs, 1999). Micro-TESE kết hợp với ICSI có thể mang đến cơ hội cho những bệnh nhân NOA có thể có được con của chính mình. Trong một số nghiên cứu trước đây, việc kết hợp kĩ thuật micro-TESE và ICSI đã cho thấy tỷ lệ thụ tinh và mang thai cao đối với sử dụng tinh trùng tươi ở bệnh nhân NOA (Silber SJ và cs, 1995; Corona G và cs, 2019). Hiện nay, bên cạnh việc sử dụng tinh trùng tươi, các phương pháp bảo quản lạnh số lượng tinh trùng ít vẫn đang được nghiên cứu và phát triển nhằm hạn chế việc phẫu thuật nhiều lần gây ra những tác động bất lợi cho bệnh nhân (Alrabeeah K và cs, 2015; Liu F và cs, 2017). Tác giả Zhang và cộng sự (2020) đã tiến hành nghiên cứu này nhằm đánh giá kết quả sau điều trị micro-TESE kết hợp ICSI ở bệnh nhân NOA từ tinh trùng tươi và tinh trùng được bảo quản lạnh.
 
Nghiên cứu được tiến hành hồi cứu kết quả từ tháng 3 năm 2016 đến tháng 2 năm 2020. Nghiên cứu với sự tham gia của 2 nhóm bệnh nhân: nhóm A (40 bệnh nhân trải qua 40 chu kỳ ICSI với tinh trùng tươi từ micro-TESE) và nhóm B (30 bệnh nhân trải qua 30 chu kỳ ICSI với tinh trùng được bảo quản lạnh từ micro-TESE). Trong số 40 bệnh nhân thuộc nhóm A, 5 bệnh nhân đã trải qua cả hai chu kỳ ICSI tinh trùng tươi và bảo quản lạnh. Các đặc điểm của bệnh nhân, sự phát triển phôi thai và kết quả ICSI được ghi nhận và so sánh giữa 2 nhóm.

Kết quả thu được như sau:
  • Tỷ lệ thu hồi tinh trùng (sperm retrieval rate - SRR) sau micro-TESE ở bệnh nhân NOA là 35,25%.
  • Không quan sát thấy sự khác biệt thống kê về đặc điểm bệnh nhân và tỷ lệ thụ tinh hoặc chất lượng phôi giữa nhóm A và nhóm B.
  • Tỷ lệ sẩy thai cao hơn và tỷ lệ sinh sống thấp hơn ở nhóm B so với nhóm A (P <0,05).
Qua nghiên cứu cho thấy, sử dụng tinh trùng từ tinh hoàn tươi dường như tạo ra kết quả ICSI tốt hơn so với tinh trùng từ tinh hoàn được bảo quản lạnh từ những bệnh nhân NOA trong chu kỳ micro-TESE kết hợp ICSI.
 
Nguồn: Zhang, Zhihong PhD; Jing, Jili MD; Luo, Lili MD; Li, Leilei MD; Zhang, Hongyang MD; Xi, Qi MD; Liu, Ruizhi PhD. ICSI outcomes of fresh or cryopreserved spermatozoa from micro-TESE in patients with nonobstructive azoospermia. Medicine 2021; 100. (12): e25021.

Các tin khác cùng chuyên mục:
HOẠT ĐỘNG
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025

Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK