Tin tức
on Thursday 09-09-2021 6:12pm
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Nguyễn Thị Thuỷ Tiên - IVFMD Tân Bình
Béo phì là tình trạng tích tụ chất béo bất thường hoặc quá mức gây nguy hiểm cho sức khoẻ, là một trong những nguyên nhân chính gây các bệnh lý về tim mạch, tiểu đường, cao huyết áp và có thể dẫn đến tử vong. Chỉ số khối cơ thể (BMI) trên 25 (kg/m2) được coi là thừa cân và trên 30 (kg/m2) là béo phì. Trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản nói riêng, béo phì ở phụ nữ và nam giới có liên quan đến tỷ lệ thụ thai kém. Nhiều nghiên cứu trước đây cho thấy béo phì không gây ảnh hưởng rõ ràng lên khả năng sinh sản nam giới, tuy nhiên ở nữ giới béo phì gây rối loạn phóng noãn, giảm chất lượng noãn và phôi, giảm khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung, làm giảm khả năng làm tổ và tăng tỷ lệ sẩy thai. Cho đến nay, có rất ít nghiên cứu đánh giá nguy cơ sẩy thai của phụ nữ béo phì sau khi chuyển phôi nguyên bội (euploid). Do đó, Mauro và cộng sự năm 2020 đã thực hiện nghiên cứu với mục đích đánh giá xem chỉ số khối cơ thể phụ nữ (BMI) có liên quan đến việc tăng nguy cơ sẩy thai sau khi chuyển phôi nguyên bội hay không.
Nghiên cứu thực hiện bằng phương pháp quan sát hồi cứu, dữ liệu được thu thập từ bảy trung tâm IVF từ tháng 01/2016 đến tháng 04/2019. Tổng cộng có 3480 chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm, tất cả đều thực hiện xét nghiệm sàng lọc di truyền tiền làm tổ (PGT-A) trong giai đoạn phôi nang và chuyển phôi nguyên bội sau khi có kết quả phân tích PGT-A, sau đó được chia thành bốn nhóm theo chỉ số BMI (kg/m2) của bệnh nhân. Nhóm 1 bao gồm phụ nữ nhẹ cân (BMI<18,5; n = 155), nhóm 2 gồm phụ nữ có cân nặng bình thường (BMI: 18,5 – 24,9; n = 2,549), nhóm 3 bao gồm phụ nữ thừa cân (BMI: 25 – 29,9; n = 591), và nhóm 4 gồm những phụ nữ béo phì (BMI ≥ 30; n = 185). Số chu kỳ PGT-A trên mỗi bệnh nhân là tương tự nhau trong bốn nhóm. Tỷ lệ thụ tinh, ngày thực hiện sinh thiết phôi, kỹ thuật phân tích nhiễm sắc thể, số lượng phôi nguyên bội, số lượng phôi được chuyển và phương pháp chuẩn bị nội mạc tử cung để chuyển phôi là tương tự nhau ở bốn nhóm BMI. Tỷ lệ sẩy thai (bao gồm sẩy thai sinh hóa và sẩy thai lâm sàng) ở phụ nữ béo phì cao hơn đáng kể so với phụ nữ có cân nặng bình thường, chủ yếu do tỷ lệ sẩy thai lâm sàng tăng đáng kể. Tỷ lệ trẻ sinh sống ở phụ nữ bị béo phì cũng thấp hơn đáng kể so với nhóm còn lại.
Như vậy kết quả nghiên cứu cho thấy phụ nữ béo phì có tỷ lệ sẩy thai sau khi chuyển phôi nguyên bội cao hơn đáng kể so với phụ nữ có cân nặng bình thường, có thể do nhiều nguyên nhân như béo phì làm tăng tình trạng kháng insulin gây giảm chất lượng noãn và làm giảm khả năng tiếp nhận phôi của nội mạc tử cung, … và không liên quan đến phôi dị bội.
Nguồn: Cozzolino, M., García-Velasco, J. A., Meseguer, M., Pellicer, A., & Bellver, J. (2021). Female obesity increases the risk of miscarriage of euploid embryos. Fertility and Sterility, 115(6), 1495-1502.
Béo phì là tình trạng tích tụ chất béo bất thường hoặc quá mức gây nguy hiểm cho sức khoẻ, là một trong những nguyên nhân chính gây các bệnh lý về tim mạch, tiểu đường, cao huyết áp và có thể dẫn đến tử vong. Chỉ số khối cơ thể (BMI) trên 25 (kg/m2) được coi là thừa cân và trên 30 (kg/m2) là béo phì. Trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản nói riêng, béo phì ở phụ nữ và nam giới có liên quan đến tỷ lệ thụ thai kém. Nhiều nghiên cứu trước đây cho thấy béo phì không gây ảnh hưởng rõ ràng lên khả năng sinh sản nam giới, tuy nhiên ở nữ giới béo phì gây rối loạn phóng noãn, giảm chất lượng noãn và phôi, giảm khả năng tiếp nhận của nội mạc tử cung, làm giảm khả năng làm tổ và tăng tỷ lệ sẩy thai. Cho đến nay, có rất ít nghiên cứu đánh giá nguy cơ sẩy thai của phụ nữ béo phì sau khi chuyển phôi nguyên bội (euploid). Do đó, Mauro và cộng sự năm 2020 đã thực hiện nghiên cứu với mục đích đánh giá xem chỉ số khối cơ thể phụ nữ (BMI) có liên quan đến việc tăng nguy cơ sẩy thai sau khi chuyển phôi nguyên bội hay không.
Nghiên cứu thực hiện bằng phương pháp quan sát hồi cứu, dữ liệu được thu thập từ bảy trung tâm IVF từ tháng 01/2016 đến tháng 04/2019. Tổng cộng có 3480 chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm, tất cả đều thực hiện xét nghiệm sàng lọc di truyền tiền làm tổ (PGT-A) trong giai đoạn phôi nang và chuyển phôi nguyên bội sau khi có kết quả phân tích PGT-A, sau đó được chia thành bốn nhóm theo chỉ số BMI (kg/m2) của bệnh nhân. Nhóm 1 bao gồm phụ nữ nhẹ cân (BMI<18,5; n = 155), nhóm 2 gồm phụ nữ có cân nặng bình thường (BMI: 18,5 – 24,9; n = 2,549), nhóm 3 bao gồm phụ nữ thừa cân (BMI: 25 – 29,9; n = 591), và nhóm 4 gồm những phụ nữ béo phì (BMI ≥ 30; n = 185). Số chu kỳ PGT-A trên mỗi bệnh nhân là tương tự nhau trong bốn nhóm. Tỷ lệ thụ tinh, ngày thực hiện sinh thiết phôi, kỹ thuật phân tích nhiễm sắc thể, số lượng phôi nguyên bội, số lượng phôi được chuyển và phương pháp chuẩn bị nội mạc tử cung để chuyển phôi là tương tự nhau ở bốn nhóm BMI. Tỷ lệ sẩy thai (bao gồm sẩy thai sinh hóa và sẩy thai lâm sàng) ở phụ nữ béo phì cao hơn đáng kể so với phụ nữ có cân nặng bình thường, chủ yếu do tỷ lệ sẩy thai lâm sàng tăng đáng kể. Tỷ lệ trẻ sinh sống ở phụ nữ bị béo phì cũng thấp hơn đáng kể so với nhóm còn lại.
Như vậy kết quả nghiên cứu cho thấy phụ nữ béo phì có tỷ lệ sẩy thai sau khi chuyển phôi nguyên bội cao hơn đáng kể so với phụ nữ có cân nặng bình thường, có thể do nhiều nguyên nhân như béo phì làm tăng tình trạng kháng insulin gây giảm chất lượng noãn và làm giảm khả năng tiếp nhận phôi của nội mạc tử cung, … và không liên quan đến phôi dị bội.
Nguồn: Cozzolino, M., García-Velasco, J. A., Meseguer, M., Pellicer, A., & Bellver, J. (2021). Female obesity increases the risk of miscarriage of euploid embryos. Fertility and Sterility, 115(6), 1495-1502.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Sử dụng thuốc lá có liên quan đến phôi nang phát triển chậm ngày 6 - Ngày đăng: 06-09-2021
Ảnh hưởng của việc lặp lại quá trình trữ rã sử dụng cryotip lên kết quả lâm sàng của phôi. - Ngày đăng: 06-09-2021
Các tổng quan hệ thống về châm cứu cho phụ nữ hiếm muộn thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm và chuyển phôi - Ngày đăng: 04-09-2021
Chỉ số khối cơ thể của người phụ nữ trước sinh có liên quan đến nhiễm sắc thể phôi và tỉ lệ sinh sống sau chuyển đơn phôi ngày 5 nguyên bội - Ngày đăng: 04-09-2021
Ảnh hưởng của béo phì trong hiếm muộn - Ngày đăng: 06-09-2021
Ảnh hưởng của thời điểm thụ tinh đến kết quả điều trị IVF cổ điển và ICSI - Ngày đăng: 04-09-2021
Hiệu quả của chuyển phôi đông lạnh từ r.ICSI trong các chu kỳ IVF cổ điển: Một nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 03-09-2021
Số lượng noãn hoặc phôi cần để tối ưu hoá tỉ lệ sinh sống và tỉ lệ sinh sống cộng dồn trong các chu kỳ IVF kích thích buồng trứng nhẹ - Ngày đăng: 03-09-2021
Mối tương quan giữa kết quả thụ tinh bất thường trong ICSI và các thông số tinh dịch đồ bất thường: một nghiên cứu quan sát hồi cứu trên 1855 trường hợp - Ngày đăng: 03-09-2021
Kết quả ICSI trên 117 bệnh nhân có bất thường tinh trùng đuôi ngắn nghiêm trọng trong một nghiên cứu quan sát hồi cứu - Ngày đăng: 02-09-2021
Kết quả IVF cộng dồn sau khi thu nhận tinh trùng từ tinh hoàn: chúng ta có nên sử dụng tinh trùng bất động cho ICSI? - Ngày đăng: 02-09-2021
TINH TRÙNG ĐẦU KIM VÀ KẾT QUẢ TIÊM TINH TRÙNG VÀO BÀO TƯƠNG NOÃN (ICSI) - Ngày đăng: 30-08-2021
HOẠT ĐỘNG
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK