Tin tức
on Thursday 09-12-2021 7:32am
Danh mục: Tin quốc tế
CN.Trần Vĩnh Thiên Ngọc – IVFMD Tân Bình
Chuyển phôi nang (Blastocyst transfer – BT) hiện nay phổ biến tại các trung tâm IVF vì một số lợi ích như cải thiện tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ sinh sống, giảm số lượng phôi chuyển và giảm thời gian mang thai thông qua việc lựa chọn phôi tốt hơn sau khi kích hoạt bộ gen phôi và nội mạc tử cung đồng bộ hơn so với chuyển phôi giai đoạn phân chia. Trong những thập kỷ qua, những tiến bộ trong kiến thức về sinh lý phát triển của giao tử và phôi đã giúp sự phát triển của hệ thống nuôi cấy phôi cho phép các phôi nang được nuôi cấy và phát triển với sự ổn định cao hơn. Mặt khác, sự ra đời của quá trình thủy tinh hóa đã cho phép áp dụng rộng rãi phương pháp chuyển đơn phôi nang đông lạnh (frozen single blastocyst transfers – FSBT), đã được báo cáo làm giảm tỷ lệ đa thai, tỷ lệ thai ngoài tử cung, các biến chứng liên quan đến phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh, chi phí chăm sóc sức khỏe. Phôi được nuôi cấy trong ống nghiệm đến giai đoạn phôi nang 5 ngày sau khi thụ tinh, các phôi phát triển chậm hơn có thể đạt được sự tạo khoang phôi vào ngày thứ 6 (D6). Cho đến nay, có nhiều kết quả mâu thuẫn về việc liệu tốc độ phát triển của phôi nang có ảnh hưởng đến kết quả sơ sinh trong chu kỳ BT hay không. Có những nghiên cứu đã báo cáo rằng ở những phụ nữ chuyển phôi D6, quá trình phát triển phôi chậm có thể phản ánh khiếm khuyết nội tại của chất lượng phôi nang hoặc môi trường nuôi cấy chưa tối ưu. Người ta suy đoán rằng kết quả sinh từ các chu kỳ chuyển phôi trữ D6 có thể có kết quả sơ sinh khác nhau do cân nặng bé sinh và khả năng nhỏ hơn so với tuổi thai (SGA) so với chuyển phôi ngày 5 (D5). Mục tiêu của nghiên cứu hồi cứu này là phân tích sự khác biệt về kết quả sơ sinh giữa BT đông lạnh D5 và D6 FSBTs về tỷ lệ sinh non (PTB), nhẹ cân (LBW) (<2500g), quá cân khi sinh (HBW) (>4500 g), SGA và lớn so với tuổi thai (LGA). Ngoài ra, bài nghiên cứu còn so sánh thêm các kết cục sơ sinh từ phôi D6 rã nuôi từ D5.
Đây là một nghiên cứu hồi cứu (2021) các ca sinh một con từ 1280 phụ nữ chuyển đơn phôi nang đông lạnh trong thời gian từ tháng 1 năm 2016 đến tháng 12 năm 2018 tại một trung tâm IVF. Bệnh nhân được chia thành hai nhóm: D5 và D6. Tất cả phôi nang ngày 5 và ngày 6 lần lượt được nhóm lại thành bốn nhóm dựa trên hình dạng ICM và TE của phôi nang: xuất sắc (AA), tốt (AB hoặc BA), trung bình (AC, CA hoặc BB) và kém (BC hoặc CB). Kết quả chính là tuổi thai và cân nặng khi sinh.
Kết quả: Các ca sinh bé từ chuyển phôi nang ngày 5 có nguy cơ sinh non thấp hơn so với ngày 6 (aOR 0,63, KTC 95%, 0,41–0,97, P = 0,035). Nhóm phôi nang chất lượng tốt và trung bình ngày 5 có nguy cơ sinh non thấp hơn so với nhóm ngày 6 (aOR 0,22, KTC 95%, 0,08–0,63, P = 0,005 và aOR 0,52, KTC 95%, 0,29–0,94, P = 0,03).
Trong nghiên cứu hồi cứu này, tỷ lệ PTB ở các FSBT D5 thấp hơn đáng kể so với D6. Các tác giả đã phân tích liệu sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ PTB giữa D5 FSBTs và D6 FSBTs có liên quan đến chất lượng phôi của D5 và D6 hay không. Các tác giả nhận thấy rằng tỷ lệ phôi nang chất lượng xuất sắc và chất lượng tốt được chuyển trên D5 cao hơn đáng kể so với D6 (P <0,001). Nhưng tỷ lệ phôi nang kém chất lượng ở D5 thấp hơn D6 (P <0,001). Ở những bệnh nhân đang chuyển phôi D6, quá trình phát triển phôi chậm có thể phản ánh khiếm khuyết nội tại của chất lượng phôi. Một bài báo gần đây đã chứng minh rằng mức độ methyl hóa toàn bộ của phôi nang chất lượng cao là tương tự nhau, trong khi mức độ methyl hóa của phôi chất lượng thấp là khác nhau, cho thấy mối liên hệ giữa quá trình methyl hóa DNA và tiềm năng của phôi. Vì vậy, nghiên cứu này đã phân tích thêm kết quả sơ sinh của các phôi nang được chuyển có chất lượng phôi tương tự trong các ngày phát triển khác nhau. Các tác giả chỉ ra rằng trong FSBT chất lượng trung bình, tỷ lệ PTB của D6 cao hơn D5 (P <0,05). Trong các ca sinh sống từ phôi chất lượng tốt D6 có tỷ lệ PTB cao hơn đáng kể so với D5 (P = 0,002). Không có sự khác biệt đáng kể về chu kỳ chuyển phôi nang chất lượng tốt và kém giữa D5 và D6 về kết quả sơ sinh. Người ta đã báo cáo rằng các phôi bị tổn thương về sự phát triển sẽ có trao đổi chất tích cực hơn về chuyển hoá axit amin, và tạo ra các ROS và ATP ở mức độ cao so với các phôi bình thường. Các tác giả cho rằng sự thay đổi cân bằng nội môi và rối loạn trao đổi chất có thể giống nhau giữa các phôi được chuyển trên D5 và D6 trong FSBTs chất lượng kém, do đó dẫn đến kết quả sinh giống nhau. Tổng hợp lại, các bằng chứng đã ủng hộ ý tưởng rằng việc mở rộng nuôi cấy trong ống nghiệm có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của thế hệ con cái bằng cách kích hoạt các thay đổi di truyền hoặc biểu sinh của các phôi được chuyển.
Tóm lại, đối với các kết cục chính, D6 FSBT có liên quan đến nguy cơ PTB cao hơn so với D5 FSBT, một tác động có thể liên quan đến thời gian nuôi cấy và chất lượng nội tại của phôi. Tuy nhiên, phát hiện này đòi hỏi sự tìm hiểu và giải thích mang tính sinh học sâu hơn.
Nguồn: Zhu L, Wang J, Chen L, Jiang W, Fang J, Wang S, Lin F, Zhang N. Blastocyst development rate influences singleton gestational age of similarly graded blastocysts following vitrified-thawed single embryo transfer cycles. Reproductive BioMedicine Online. 2021 Nov 27.
Chuyển phôi nang (Blastocyst transfer – BT) hiện nay phổ biến tại các trung tâm IVF vì một số lợi ích như cải thiện tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ sinh sống, giảm số lượng phôi chuyển và giảm thời gian mang thai thông qua việc lựa chọn phôi tốt hơn sau khi kích hoạt bộ gen phôi và nội mạc tử cung đồng bộ hơn so với chuyển phôi giai đoạn phân chia. Trong những thập kỷ qua, những tiến bộ trong kiến thức về sinh lý phát triển của giao tử và phôi đã giúp sự phát triển của hệ thống nuôi cấy phôi cho phép các phôi nang được nuôi cấy và phát triển với sự ổn định cao hơn. Mặt khác, sự ra đời của quá trình thủy tinh hóa đã cho phép áp dụng rộng rãi phương pháp chuyển đơn phôi nang đông lạnh (frozen single blastocyst transfers – FSBT), đã được báo cáo làm giảm tỷ lệ đa thai, tỷ lệ thai ngoài tử cung, các biến chứng liên quan đến phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh, chi phí chăm sóc sức khỏe. Phôi được nuôi cấy trong ống nghiệm đến giai đoạn phôi nang 5 ngày sau khi thụ tinh, các phôi phát triển chậm hơn có thể đạt được sự tạo khoang phôi vào ngày thứ 6 (D6). Cho đến nay, có nhiều kết quả mâu thuẫn về việc liệu tốc độ phát triển của phôi nang có ảnh hưởng đến kết quả sơ sinh trong chu kỳ BT hay không. Có những nghiên cứu đã báo cáo rằng ở những phụ nữ chuyển phôi D6, quá trình phát triển phôi chậm có thể phản ánh khiếm khuyết nội tại của chất lượng phôi nang hoặc môi trường nuôi cấy chưa tối ưu. Người ta suy đoán rằng kết quả sinh từ các chu kỳ chuyển phôi trữ D6 có thể có kết quả sơ sinh khác nhau do cân nặng bé sinh và khả năng nhỏ hơn so với tuổi thai (SGA) so với chuyển phôi ngày 5 (D5). Mục tiêu của nghiên cứu hồi cứu này là phân tích sự khác biệt về kết quả sơ sinh giữa BT đông lạnh D5 và D6 FSBTs về tỷ lệ sinh non (PTB), nhẹ cân (LBW) (<2500g), quá cân khi sinh (HBW) (>4500 g), SGA và lớn so với tuổi thai (LGA). Ngoài ra, bài nghiên cứu còn so sánh thêm các kết cục sơ sinh từ phôi D6 rã nuôi từ D5.
Đây là một nghiên cứu hồi cứu (2021) các ca sinh một con từ 1280 phụ nữ chuyển đơn phôi nang đông lạnh trong thời gian từ tháng 1 năm 2016 đến tháng 12 năm 2018 tại một trung tâm IVF. Bệnh nhân được chia thành hai nhóm: D5 và D6. Tất cả phôi nang ngày 5 và ngày 6 lần lượt được nhóm lại thành bốn nhóm dựa trên hình dạng ICM và TE của phôi nang: xuất sắc (AA), tốt (AB hoặc BA), trung bình (AC, CA hoặc BB) và kém (BC hoặc CB). Kết quả chính là tuổi thai và cân nặng khi sinh.
Kết quả: Các ca sinh bé từ chuyển phôi nang ngày 5 có nguy cơ sinh non thấp hơn so với ngày 6 (aOR 0,63, KTC 95%, 0,41–0,97, P = 0,035). Nhóm phôi nang chất lượng tốt và trung bình ngày 5 có nguy cơ sinh non thấp hơn so với nhóm ngày 6 (aOR 0,22, KTC 95%, 0,08–0,63, P = 0,005 và aOR 0,52, KTC 95%, 0,29–0,94, P = 0,03).
Trong nghiên cứu hồi cứu này, tỷ lệ PTB ở các FSBT D5 thấp hơn đáng kể so với D6. Các tác giả đã phân tích liệu sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ PTB giữa D5 FSBTs và D6 FSBTs có liên quan đến chất lượng phôi của D5 và D6 hay không. Các tác giả nhận thấy rằng tỷ lệ phôi nang chất lượng xuất sắc và chất lượng tốt được chuyển trên D5 cao hơn đáng kể so với D6 (P <0,001). Nhưng tỷ lệ phôi nang kém chất lượng ở D5 thấp hơn D6 (P <0,001). Ở những bệnh nhân đang chuyển phôi D6, quá trình phát triển phôi chậm có thể phản ánh khiếm khuyết nội tại của chất lượng phôi. Một bài báo gần đây đã chứng minh rằng mức độ methyl hóa toàn bộ của phôi nang chất lượng cao là tương tự nhau, trong khi mức độ methyl hóa của phôi chất lượng thấp là khác nhau, cho thấy mối liên hệ giữa quá trình methyl hóa DNA và tiềm năng của phôi. Vì vậy, nghiên cứu này đã phân tích thêm kết quả sơ sinh của các phôi nang được chuyển có chất lượng phôi tương tự trong các ngày phát triển khác nhau. Các tác giả chỉ ra rằng trong FSBT chất lượng trung bình, tỷ lệ PTB của D6 cao hơn D5 (P <0,05). Trong các ca sinh sống từ phôi chất lượng tốt D6 có tỷ lệ PTB cao hơn đáng kể so với D5 (P = 0,002). Không có sự khác biệt đáng kể về chu kỳ chuyển phôi nang chất lượng tốt và kém giữa D5 và D6 về kết quả sơ sinh. Người ta đã báo cáo rằng các phôi bị tổn thương về sự phát triển sẽ có trao đổi chất tích cực hơn về chuyển hoá axit amin, và tạo ra các ROS và ATP ở mức độ cao so với các phôi bình thường. Các tác giả cho rằng sự thay đổi cân bằng nội môi và rối loạn trao đổi chất có thể giống nhau giữa các phôi được chuyển trên D5 và D6 trong FSBTs chất lượng kém, do đó dẫn đến kết quả sinh giống nhau. Tổng hợp lại, các bằng chứng đã ủng hộ ý tưởng rằng việc mở rộng nuôi cấy trong ống nghiệm có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của thế hệ con cái bằng cách kích hoạt các thay đổi di truyền hoặc biểu sinh của các phôi được chuyển.
Tóm lại, đối với các kết cục chính, D6 FSBT có liên quan đến nguy cơ PTB cao hơn so với D5 FSBT, một tác động có thể liên quan đến thời gian nuôi cấy và chất lượng nội tại của phôi. Tuy nhiên, phát hiện này đòi hỏi sự tìm hiểu và giải thích mang tính sinh học sâu hơn.
Nguồn: Zhu L, Wang J, Chen L, Jiang W, Fang J, Wang S, Lin F, Zhang N. Blastocyst development rate influences singleton gestational age of similarly graded blastocysts following vitrified-thawed single embryo transfer cycles. Reproductive BioMedicine Online. 2021 Nov 27.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Bảo quản lạnh kéo dài ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả chuyển phôi sau chiến lược trữ phôi toàn bộ chọn lọc: Một nghiên cứu hồi cứu đa trung tâm - Ngày đăng: 06-12-2021
Kết quả lâm sàng của chuyển phôi tươi và chuyển phôi trữ ở phụ nữ ≥ 40 tuổi có đáp ứng buồng trứng kém - Ngày đăng: 06-12-2021
Lựa chọn tinh trùng bất động bằng laser không ảnh hưởng đến kết quả sản khoa và trẻ sơ sinh từ chu kỳ TESA-ICSI - Ngày đăng: 06-12-2021
Hình ảnh trao đổi chất của các tế bào cumulus cho thấy các mối liên quan giữa các kiểu trao đổi chất của các tế bào cumulus với các yếu tố lâm sàng của bệnh nhân và sự trưởng thành noãn - Ngày đăng: 06-12-2021
Thiết lập nồng độ CO2 khác nhau (6,0% so với 7,0%) ảnh hưởng đến pH của môi trường nuôi cấy (pHe) và tỉ lệ phôi nguyên bội hơn sự phát triển của phôi nang: một nghiên cứu chia noãn - Ngày đăng: 04-12-2021
Cải thiện kết quả lâm sàng ở những phôi ngày 3 có số phôi bào ít bằng cách nuôi cấy đến giai đoạn phôi nang, trữ lạnh và chuyển phôi trữ sau đó - Ngày đăng: 04-12-2021
Tỉ lệ trẻ sinh sống tích lũy sau khi bảo tồn khả năng sinh sản ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung - cần đông lạnh bao nhiêu noãn? - Ngày đăng: 04-12-2021
Tỉ lệ trẻ sinh sống tích lũy sau khi bảo tồn khả năng sinh sản ở phụ nữ bị lạc nội mạc tử cung - cần đông lạnh bao nhiêu noãn? - Ngày đăng: 04-12-2021
Sự hình thành phôi nang là tương tự nhau giữa phụ nữ béo phì và phụ nữ có cân nặng bình thường: một nghiên cứu động học hình thái phôi - Ngày đăng: 04-12-2021
Chất lượng phôi, tỷ lệ nguyên bội và kết quả chuyển phôi trên phôi nang có giới tính nam so với nữ - Ngày đăng: 03-12-2021
Tác động của nhiệt độ môi trường xung quanh lên dự trữ buồng trứng - Ngày đăng: 03-12-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK