Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Monday 13-09-2021 8:20am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Thị Vân Anh – IVF Vạn Hạnh

Những tiến bộ vượt bậc trong kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (Assisted reproductive techniques - ART) giúp cho những cặp vợ chồng vô sinh – hiếm muộn có cơ hội có những đứa con của chính mình. Theo thống kê có khoảng 7% các ca sinh nở được thực hiện bằng ART. Tuy nhiên, các bằng chứng cho thấy khoảng 80 – 85% phụ nữ bị sẩy thai sau khi chuyển phôi và chỉ có 1/5 số đó có thể tiếp tục mang thai. Một số yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ mang thai sau khi chuyển phôi bao gồm số lượng phôi, chất lượng phôi và khả năng chấp nhận của niêm mạc tử cung. Bên cạnh đó, một số yếu tố khác ảnh hưởng đến chất lượng chuyển phôi như các cơn gò tử cung, loại catheter, có hay không sử dụng siêu âm khi chuyển phôi, phương pháp chuyển, đầu catheter có chất nhầy, máu hay vi khuẩn, sót phôi…. Trong đó, vị trí chuyển phôi được coi là một yếu tố có ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ thành công của quy trình chuyển phôi. Theo y văn, độ sâu chuyển phôi bằng hoặc trong khoảng 10 mm tính từ đáy tử cung thì tỷ lệ mang thai và làm tổ giảm đáng kể so với cách đáy từ 10 – 20 mm. Tuy nhiên, một nghiên cứu đã báo cáo không có sự khác biệt về tỷ lệ mang thai và làm tổ giữa các vị trí chuyển phôi khác nhau (ví dụ: 10 – 15 mm, 16 – 21 mm và ≥ 21 mm). Ngoài ra, cũng không có sự khác biệt về tỷ lệ mang thai và làm tổ khi phôi nằm ở phần trên hay phần dưới của khoang nội mạc tử cung. Với tầm quan trọng của vị trí chuyển phôi và những tranh cãi về vị trí tối ưu của việc đặt phôi trong tử cung, nghiên cứu này đánh giá ảnh hưởng của vị trí chuyển phôi với khoảng cách khác nhau từ đáy nội mạc tử cung lên kết quả điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization – IVF)/tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intra-cytoplasmic Sperm Injection – ICSI).
 
Davar và cộng sự (2020) đã thử nghiệm ngẫu nhiên trên 180 phụ nữ trải qua IVF/ICSI tại Iran. Những người tham gia trong độ tuổi từ 20 – 39 tuổi và được chuyển phôi tươi. Những phụ nữ mắc các hội chứng về nội tiết và chuyển hóa, nồng độ FSH > 12, buồng trứng đa nang, u cơ tử cung, tắc ống dẫn trứng, lạc nội mạc tử cung (độ III, IV), tiền sử phẫu thuật đều bị loại khỏi nghiên cứu. Vào ngày chuyển phôi, máy tính chia ngẫu nhiên những người tham gia thành 2 nhóm dựa vào khoảng cách giữa đáy nội mạc tử cung và đầu catheter: nhóm A (15 ± 5 mm) và nhóm B (25 ± 5 mm). Khi chuyển phôi, bệnh nhân được siêu âm qua ổ bụng sao cho khi catheter ở vị trí thích hợp thì khoảng cách giữa bong bóng khí và bề mặt nội mạc tử cung như đã chia ở hai nhóm.
 
Đặc điểm lâm sàng của những người phụ nữ tham gia nghiên cứu cho thấy, không có sự khác biệt về tuổi, tần suất các chu kỳ IVF/ICSI, thời gian vô sinh, số noãn thu được, số lượng và chất lượng phôi chuyển (p>0,05) giữa hai nhóm. Kết quả lâm sàng ghi nhận nhóm B có tỷ lệ làm tổ (17,2%), thai sinh hóa (30,4%) và thai lâm sàng (26,7%) cao hơn đáng kể so với nhóm A (p<0,05). Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể nào về tỷ lệ thai diễn tiến giữa hai nhóm nhưng có xu hướng tăng ở nhóm B. Bên cạnh đó, kết quả thu được về tỷ lệ sẩy thai, và tỷ lệ đa thai không có sự khác biệt đáng kể giữa 2 nhóm (p>0,05). Đáng chú ý, không ghi nhận thai ngoài tử cung trong thử nghiệm.
 
Bất chấp những tiến bộ trong ART nhưng tỷ lệ chuyển phôi và mang thai tương đối thấp. Do đó, các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ thành công của ART phải được điều tra kỹ lưỡng. Nghiên cứu nhằm đánh giá sự ảnh hưởng của chuyển phôi lên kết quả ART. Giả thuyết nghiên cứu khoảng cách đặt phôi trung bình 25 ± 5 mm giúp nâng cao kết quả ART. Các đặc điểm cơ bản của dân số, quá trình rụng trứng và kích thích rụng trứng trong nghiên cứu là giống nhau. Hơn nữa, cả bác sĩ chuyên khoa, bác sĩ phôi học và bác sĩ lâm sàng đều giống nhau ở tất cả bệnh nhân. Theo kết quả thu được, tỷ lệ làm tổ, thai lâm sàng và thai sinh hóa cao hơn đáng kể ở những phụ nữ chuyển phôi với khoảng cách đã nêu.
 
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ làm tổ, thai sinh hóa và thai lâm sàng có thể bị ảnh hưởng bởi vị trí chuyển phôi. Trong đó, kết quả tốt đã đạt được khi đặt đầu catheter ở khoảng 25 ± 5 mm so với đáy tử cung và được coi như là yếu tố quan trọng cải thiện sự thành công của các chu kỳ IVF.
 
Lược dịch từ: Davar, R., Poormoosavi, S. M., Mohseni, F., & et al (2020). Effect of embryo transfer depth on IVF/ICSI outcomes: A randomized clinical trial. International journal of reproductive biomedicine, 18(9), 723–732.

Các tin khác cùng chuyên mục:
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK