Tin tức
on Thursday 09-09-2021 6:13pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phạm Ngọc Đan Thanh
IVFMD-AS, Bệnh viện An Sinh
Đại dịch COVID-19 do SARS-CoV-2 – một virus gây ra suy hô hấp cấp tính, hiện là vấn đề cấp bách hàng đầu trên khắp thể giới. Thông qua cơ chế bám vào thụ thể angiotensin-converting enzyme 2 (ACE2), SARS-CoV-2 xâm nhập bên trong tế bào vật chủ và tiến hành nhân bản số lượng liên tục. Khi số lượng SARS-CoV-2 đủ lớn để phá vỡ hệ miễn dịch, cơ thể khi đó không đủ đề kháng để chống lại và nhiễm bệnh. Sau khi bị nhiễm SARS-CoV-2, người bệnh thường xuất hiện những triệu chứng như ho khan, sốt cao, mệt mỏi, khó thở và thường tiến triển thành viêm phổi. Trong những trường hợp nghiêm trọng, bệnh nhân sẽ suy yếu nội tạng và nặng nhất có thể tử vong.
So với phụ nữ bình thường, phụ nữ khi mang thai thường dễ bị nhiễm trùng đường hô hấp hơn. Nguyên nhân do quá trình mang thai sẽ thay đổi sinh lý hệ miễn dịch, hệ tuần hoàn và hô hấp, do đó sản phụ khi nhiễm bệnh thường sẽ nặng hơn bình thường. Sản phụ khi mắc COVID-19 dẫn đến suy hô hấp dễ gây thiếu oxy ở bào thai, có thể gây tình trạng thai lưu, sinh non. Ngoài ra, việc sử dụng thuốc điều trị COVID-19 không rõ nguồn gốc có thể ảnh hưởng xấu như gây suy tim, suy thận và tử vong cho sản phụ và trẻ. Một số nghiên cứu đánh giá nhóm sản phụ phải đưa vào phòng chăm sóc đặc biệt (ICU) khá cao khi mắc SARS-CoV-2. Đặc biệt nhóm sản phụ lớn tuổi (>35 tuổi), khi nhiễm SARS-CoV-2 có kết quả lâm sàng xấu nhất. Trong bối cảnh đại dịch SARS-CoV-2, nghiên cứu đánh giá mức độ nguy cơ đối với sản phụ, từ đó đưa ra hướng điều trị phù hợp là nhu cầu cấp bách.
Hiện vẫn còn tranh cãi về kết quả chu sinh và biến chứng thai kỳ ở nhóm thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON). Một số nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt đáng kể ở kết cục điều trị khi so sánh với phụ nữ mang thai tự nhiên. Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác kết luận thực hiện TTTON có nguy cơ biến chứng cao hơn trong thai kỳ như tăng huyết áp thai kỳ, tiểu đường thai kỳ, sinh non hay khởi phát chuyển dạ sớm hơn. Do đó, trong đại dịch SARS-CoV-2, việc đánh giá những nguy cơ có thể xảy ra với sản phụ thực hiện IVF và khi nhiễm SARS-CoV-2 là vấn đề quan trọng.
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực hiện nhằm đánh giá kết quả chu sinh và các biến chứng thai kỳ ở nhóm sản phụ nhiễm SARS-CoV-2, so sánh giữa trường hợp có thai tự nhiên và thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm. Đồng thời, nghiên cứu so sánh thêm kết quả giữa noãn tự thân và noãn xin trong nhóm bệnh nhân IVF nhiễm SARS-CoV-2.
Thiết kế nghiên cứu
Đây là nghiên cứu quan sát tiến cứu đa trung tâm. Có tổng cộng 78 trung tâm tại Tây Ban Nha. 1,347 phụ nữ mang thai có kết quả dương tính với SARS-CoV-2 được thu thập từ 26/2 – 5/11/2020. Thông tin của bệnh nhân, các biểu hiện lâm sàng của hiện tượng nhiễm trùng được thu thập từ hồ sơ y tế và thực hiện phân tích hồi quy đa biến. Độ tuổi của người mẹ được kiểm soát.
Kết cục chính
Kết quả sản khoa và chu sinh, biến chứng thai kỳ, chăm sóc đặc biệt, thở máy và tình trạng y tế.
Kết quả
Nhóm thực hiện IVF gồm 74 sản phụ (5,5%) và nhóm có thai tự nhiên gồm 1,275 sản phụ (94,5%). Độ tuổi trung bình ở nhóm IVF cao hơn nhóm có thai tự nhiên (39,6 so với 31,7 tuổi, p<0,001). Tỉ lệ sinh mổ khá cao ở cả hai nhóm. Đặc biệt ở nhóm thực hiện IVF, mổ lấy thai thường được lựa chọn (55,4%) so với nhóm mang thai tự nhiên (26,1%). Phụ nữ thực hiện IVF có nhiều rối loạn tăng huyết áp thai kỳ hơn so với phụ nữ mang thai tự nhiên (16,2% so với 4,5%, aOR 5.31, 2.45–10.93; P<0,001), bất kể nguồn gốc của noãn. Bên cạnh đó, 21,4% sản phụ IVF nhiễm SARS-CoV-2 bị tiền sản giật, tỉ lệ ở nhóm mang thai tự nhiên là 4,5% (p<0,001). Sự xuất hiện huyết khối, xuất huyết, thai lưu và tử vong mẹ là tương tự ở cả hai nhóm khi nhiễm SARS-CoV-2. Không có sự khác biệt đáng kể về kết quả chu sinh của trẻ giữa hai nhóm.
Bàn luận
Không có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm IVF và có thai tự nhiên khi nhiễm SARS-CoV-2 về biểu hiện lâm sàng và mức độ nghiêm trọng của triệu chứng, dù phần lớn bệnh nhân IVF có độ tuổi lớn hơn. Như vậy, mang thai khi thực hiện TTTON dường như không làm tăng nguy cơ nhiễm trùng, không liên quan đến nguồn gốc noãn khi sản phụ nhiễm SARS-Cov-2.
Một trong những kết quả nổi bật của nghiên cứu là tỉ lệ mổ lấy thai có tần suất cao hơn ở những bà mẹ dương tính với SARS-CoV-2, đặc biệt ở nhóm IVF. Có thể giải thích do diễn tiến của bệnh, trong giai đoạn đại dịch COVID-19 nên bệnh nhân phải kết thúc quá trình mang thai chủ động, từ đó dẫn đến nhiều ca mổ chủ động hơn. Tuy nhiên, tỉ lệ mổ lấy thai vì bệnh nặng sau nhiễm COVID-19 (viêm phổi và viêm phổi phức tạp) là tương tự giữa nhóm IVF và nhóm tự nhiên.
Nguy cơ tiền sản giật cao hơn ở các bà mẹ thực hiện IVF (đặc biệt ở nhóm xin noãn), bất kể độ tuổi và tiền sử nhiễm SARS-CoV-2. Kết quả này tương tự một số nghiên cứu khác, phụ nữ thực hiện IVF có nguy cơ cao hơn tăng huyết áp, huyết khối và các bệnh lý khác. Tăng huyết áp được mô tả là một yếu tố tiên lượng xấu khi nhiễm SARS-CoV-2. Do đó, nhóm tác giả khuyến cáo nên đặc biệt quan tâm đến nhóm sản phụ IVF hơn.
Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn còn hạn chế ở cỡ mẫu sản phụ IVF khá nhỏ, chưa đủ để đại diện cho toàn bộ dân số, có thể ảnh hưởng nghiên cứu. Tác giả cho rằng, tương lai cần đánh giá giữa nhóm thực hiện IVF mắc và không mắc COVID-19.
Kết luận
Tỉ lệ mổ lấy thai ở nhóm sản phụ nhiễm SARS-CoV-2 cao, đặc biệt ở nhóm thực hiện IVF, có thể liên quan đến nhu cầu của bà mẹ và bác sỹ sản khoa; phương pháp thụ thai (IVF hoặc mang thai tự nhiên) không ảnh hưởng đến sức khoẻ thai nhi hoặc sức khoẻ sản phụ nhiễm SARS-CoV-2, ngoại trừ trường hợp xảy ra tiền sản giật.
Nguồn: CALVO, Virginia Engels, et al. Perinatal outcomes of pregnancies resulting from assisted reproduction technology in SARS-CoV-2-infected women: a prospective observational study. Fertility and Sterility, 2021.
IVFMD-AS, Bệnh viện An Sinh
Đại dịch COVID-19 do SARS-CoV-2 – một virus gây ra suy hô hấp cấp tính, hiện là vấn đề cấp bách hàng đầu trên khắp thể giới. Thông qua cơ chế bám vào thụ thể angiotensin-converting enzyme 2 (ACE2), SARS-CoV-2 xâm nhập bên trong tế bào vật chủ và tiến hành nhân bản số lượng liên tục. Khi số lượng SARS-CoV-2 đủ lớn để phá vỡ hệ miễn dịch, cơ thể khi đó không đủ đề kháng để chống lại và nhiễm bệnh. Sau khi bị nhiễm SARS-CoV-2, người bệnh thường xuất hiện những triệu chứng như ho khan, sốt cao, mệt mỏi, khó thở và thường tiến triển thành viêm phổi. Trong những trường hợp nghiêm trọng, bệnh nhân sẽ suy yếu nội tạng và nặng nhất có thể tử vong.
So với phụ nữ bình thường, phụ nữ khi mang thai thường dễ bị nhiễm trùng đường hô hấp hơn. Nguyên nhân do quá trình mang thai sẽ thay đổi sinh lý hệ miễn dịch, hệ tuần hoàn và hô hấp, do đó sản phụ khi nhiễm bệnh thường sẽ nặng hơn bình thường. Sản phụ khi mắc COVID-19 dẫn đến suy hô hấp dễ gây thiếu oxy ở bào thai, có thể gây tình trạng thai lưu, sinh non. Ngoài ra, việc sử dụng thuốc điều trị COVID-19 không rõ nguồn gốc có thể ảnh hưởng xấu như gây suy tim, suy thận và tử vong cho sản phụ và trẻ. Một số nghiên cứu đánh giá nhóm sản phụ phải đưa vào phòng chăm sóc đặc biệt (ICU) khá cao khi mắc SARS-CoV-2. Đặc biệt nhóm sản phụ lớn tuổi (>35 tuổi), khi nhiễm SARS-CoV-2 có kết quả lâm sàng xấu nhất. Trong bối cảnh đại dịch SARS-CoV-2, nghiên cứu đánh giá mức độ nguy cơ đối với sản phụ, từ đó đưa ra hướng điều trị phù hợp là nhu cầu cấp bách.
Hiện vẫn còn tranh cãi về kết quả chu sinh và biến chứng thai kỳ ở nhóm thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON). Một số nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt đáng kể ở kết cục điều trị khi so sánh với phụ nữ mang thai tự nhiên. Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác kết luận thực hiện TTTON có nguy cơ biến chứng cao hơn trong thai kỳ như tăng huyết áp thai kỳ, tiểu đường thai kỳ, sinh non hay khởi phát chuyển dạ sớm hơn. Do đó, trong đại dịch SARS-CoV-2, việc đánh giá những nguy cơ có thể xảy ra với sản phụ thực hiện IVF và khi nhiễm SARS-CoV-2 là vấn đề quan trọng.
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực hiện nhằm đánh giá kết quả chu sinh và các biến chứng thai kỳ ở nhóm sản phụ nhiễm SARS-CoV-2, so sánh giữa trường hợp có thai tự nhiên và thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm. Đồng thời, nghiên cứu so sánh thêm kết quả giữa noãn tự thân và noãn xin trong nhóm bệnh nhân IVF nhiễm SARS-CoV-2.
Thiết kế nghiên cứu
Đây là nghiên cứu quan sát tiến cứu đa trung tâm. Có tổng cộng 78 trung tâm tại Tây Ban Nha. 1,347 phụ nữ mang thai có kết quả dương tính với SARS-CoV-2 được thu thập từ 26/2 – 5/11/2020. Thông tin của bệnh nhân, các biểu hiện lâm sàng của hiện tượng nhiễm trùng được thu thập từ hồ sơ y tế và thực hiện phân tích hồi quy đa biến. Độ tuổi của người mẹ được kiểm soát.
Kết cục chính
Kết quả sản khoa và chu sinh, biến chứng thai kỳ, chăm sóc đặc biệt, thở máy và tình trạng y tế.
Kết quả
Nhóm thực hiện IVF gồm 74 sản phụ (5,5%) và nhóm có thai tự nhiên gồm 1,275 sản phụ (94,5%). Độ tuổi trung bình ở nhóm IVF cao hơn nhóm có thai tự nhiên (39,6 so với 31,7 tuổi, p<0,001). Tỉ lệ sinh mổ khá cao ở cả hai nhóm. Đặc biệt ở nhóm thực hiện IVF, mổ lấy thai thường được lựa chọn (55,4%) so với nhóm mang thai tự nhiên (26,1%). Phụ nữ thực hiện IVF có nhiều rối loạn tăng huyết áp thai kỳ hơn so với phụ nữ mang thai tự nhiên (16,2% so với 4,5%, aOR 5.31, 2.45–10.93; P<0,001), bất kể nguồn gốc của noãn. Bên cạnh đó, 21,4% sản phụ IVF nhiễm SARS-CoV-2 bị tiền sản giật, tỉ lệ ở nhóm mang thai tự nhiên là 4,5% (p<0,001). Sự xuất hiện huyết khối, xuất huyết, thai lưu và tử vong mẹ là tương tự ở cả hai nhóm khi nhiễm SARS-CoV-2. Không có sự khác biệt đáng kể về kết quả chu sinh của trẻ giữa hai nhóm.
Bàn luận
Không có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm IVF và có thai tự nhiên khi nhiễm SARS-CoV-2 về biểu hiện lâm sàng và mức độ nghiêm trọng của triệu chứng, dù phần lớn bệnh nhân IVF có độ tuổi lớn hơn. Như vậy, mang thai khi thực hiện TTTON dường như không làm tăng nguy cơ nhiễm trùng, không liên quan đến nguồn gốc noãn khi sản phụ nhiễm SARS-Cov-2.
Một trong những kết quả nổi bật của nghiên cứu là tỉ lệ mổ lấy thai có tần suất cao hơn ở những bà mẹ dương tính với SARS-CoV-2, đặc biệt ở nhóm IVF. Có thể giải thích do diễn tiến của bệnh, trong giai đoạn đại dịch COVID-19 nên bệnh nhân phải kết thúc quá trình mang thai chủ động, từ đó dẫn đến nhiều ca mổ chủ động hơn. Tuy nhiên, tỉ lệ mổ lấy thai vì bệnh nặng sau nhiễm COVID-19 (viêm phổi và viêm phổi phức tạp) là tương tự giữa nhóm IVF và nhóm tự nhiên.
Nguy cơ tiền sản giật cao hơn ở các bà mẹ thực hiện IVF (đặc biệt ở nhóm xin noãn), bất kể độ tuổi và tiền sử nhiễm SARS-CoV-2. Kết quả này tương tự một số nghiên cứu khác, phụ nữ thực hiện IVF có nguy cơ cao hơn tăng huyết áp, huyết khối và các bệnh lý khác. Tăng huyết áp được mô tả là một yếu tố tiên lượng xấu khi nhiễm SARS-CoV-2. Do đó, nhóm tác giả khuyến cáo nên đặc biệt quan tâm đến nhóm sản phụ IVF hơn.
Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn còn hạn chế ở cỡ mẫu sản phụ IVF khá nhỏ, chưa đủ để đại diện cho toàn bộ dân số, có thể ảnh hưởng nghiên cứu. Tác giả cho rằng, tương lai cần đánh giá giữa nhóm thực hiện IVF mắc và không mắc COVID-19.
Kết luận
Tỉ lệ mổ lấy thai ở nhóm sản phụ nhiễm SARS-CoV-2 cao, đặc biệt ở nhóm thực hiện IVF, có thể liên quan đến nhu cầu của bà mẹ và bác sỹ sản khoa; phương pháp thụ thai (IVF hoặc mang thai tự nhiên) không ảnh hưởng đến sức khoẻ thai nhi hoặc sức khoẻ sản phụ nhiễm SARS-CoV-2, ngoại trừ trường hợp xảy ra tiền sản giật.
Nguồn: CALVO, Virginia Engels, et al. Perinatal outcomes of pregnancies resulting from assisted reproduction technology in SARS-CoV-2-infected women: a prospective observational study. Fertility and Sterility, 2021.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Béo phì ở phụ nữ làm tăng nguy cơ sảy thai khi chuyển phôi nguyên bội - Ngày đăng: 09-09-2021
Béo phì ở phụ nữ làm tăng nguy cơ sảy thai khi chuyển phôi nguyên bội - Ngày đăng: 09-09-2021
Sử dụng thuốc lá có liên quan đến phôi nang phát triển chậm ngày 6 - Ngày đăng: 06-09-2021
Ảnh hưởng của việc lặp lại quá trình trữ rã sử dụng cryotip lên kết quả lâm sàng của phôi. - Ngày đăng: 06-09-2021
Các tổng quan hệ thống về châm cứu cho phụ nữ hiếm muộn thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm và chuyển phôi - Ngày đăng: 04-09-2021
Chỉ số khối cơ thể của người phụ nữ trước sinh có liên quan đến nhiễm sắc thể phôi và tỉ lệ sinh sống sau chuyển đơn phôi ngày 5 nguyên bội - Ngày đăng: 04-09-2021
Ảnh hưởng của béo phì trong hiếm muộn - Ngày đăng: 06-09-2021
Ảnh hưởng của thời điểm thụ tinh đến kết quả điều trị IVF cổ điển và ICSI - Ngày đăng: 04-09-2021
Hiệu quả của chuyển phôi đông lạnh từ r.ICSI trong các chu kỳ IVF cổ điển: Một nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 03-09-2021
Số lượng noãn hoặc phôi cần để tối ưu hoá tỉ lệ sinh sống và tỉ lệ sinh sống cộng dồn trong các chu kỳ IVF kích thích buồng trứng nhẹ - Ngày đăng: 03-09-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK