Tin tức
on Monday 06-09-2021 2:52pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Duy Khang – IVF Vạn Hạnh
Chuyển phôi trữ lạnh – rã đông đã trở thành một kỹ thuật thiết yếu trong công nghệ hỗ trợ sinh sản (assisted reproductive technologies - ART); với số chu kỳ điều trị ngày càng tăng. Kỹ thuật thuỷ tinh hoá có thể sử dụng nhiều dụng cụ chứa khác nhau, như Cryoloop, Cryotop và CryoTip, được phát triển nhằm trữ lạnh phôi và mang đến tỷ lệ phôi sống, thai lâm sàng cao. Có hai loại dụng cụ chứa được sử dụng trong quá trình thuỷ tinh hoá, gồm: dụng cụ chứa hở, như Cryploop và Cryotop, và dụng cụ chứa kín, như CryoTip. Dụng cụ chứa hở có thể đạt được tốc độ thuỷ tinh hoá và rã đông cực nhanh do tối thiểu thể tích môi trường vào thời điểm trữ lạnh, kết hợp với sự tiếp xúc trực tiếp của phôi và nito lỏng, giúp đạt được tỷ lệ phôi sống và mang thai tốt. Tuy nhiên, tồn tại một số lo ngại như mối nguy tiềm ẩn cho phôi do tiếp xúc với các nguồn lây nhiễm hiện diện trong nito lỏng vào thời điểm thuỷ tinh hoá hoặc trong quá trình bảo quản khi sử dụng dụng cụ chứa hở. Mặc dù chưa có nghiên cứu chứng minh rằng phôi hấp thụ bất kỳ nguồn lây nhiễm nào trong suốt quá trình thuỷ tinh hoá và bảo quản, nhưng việc nhiễm vẫn có thể xảy ra. Do đó, khi sử dụng dụng cụ chứa kín, phôi sẽ không tiếp xúc trực tiếp với nito lỏng, có thể giảm nguy cơ lây nhiễm cho phôi. Một số nghiên cứu cho thấy kết quả lâm sàng của CryoTip có thể so sánh với kết quả từ Cryoloop và Cryotop, giúp CryoTip đủ hiệu quả như là một dụng cụ chứa kín cho trữ lạnh phôi.
Trong một nghiên cứu, phôi giai đoạn tiền nhân được trữ lạnh, sau đó được rã đông và phát triển lên phôi dâu, được tái trữ lạnh - rã đông và phát triển thành phôi nang. Các phôi nang này sau đó được chuyển và cho kết quả là trẻ sinh sống. Trong một nghiên cứu khác, bệnh nhân sau khi chuyển phôi nang được trữ - rã hai lần đã có thai. Tuy nhiên, chỉ có một số ít bài báo cáo về tiên lượng của phôi trữ - rã nhiều lần, vì vậy, việc sử dụng những phôi này vẫn chưa rõ ràng. Do đó, nghiên cứu này so sánh kết quả chuyển phôi nang được trữ - rã hai lần hoặc ba lần so với những phôi nang được trữ - rã chỉ một lần bằng CryoTip.
Phương pháp: Nghiên cứu ghi nhận kết quả của 240 bệnh nhân với 388 chu kỳ chuyển đơn phôi nang trữ lạnh, từ 04/2012 – 03/2014. Phôi được chia thành ba nhóm: (A) phôi nang trữ lạnh một lần, (B) phôi nang trữ lạnh hai lần và (C) phôi nang trữ lạnh ba lần.
Kết quả: Về kết quả trữ lạnh phôi nang một lần so với hai lần: không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ mang thai (43,7%-46,3%), sảy thai (23,7%-29,1%), cân nặng trẻ (3.002-3.079 g) và tuần sinh (37,62-38,01). Tỷ lệ hạ bậc phôi sau rã đông là 16,0% (49/306) ở nhóm A và 19,5% (16/82) ở nhóm B. Tỷ lệ mang thai ở những phôi hạ bậc là 32,7% (16/49) ở nhóm A và 37,5% (6/16) ở nhóm B. Tỷ lệ sảy thai của các phôi nang hạ bậc là 18,8% (3/16) ở nhóm A và 33,3% (2/6) ở nhóm B. Về kết quả trữ lạnh phôi nang ba lần: tỷ lệ có thai là 33,3% (2/6) và tỷ lệ sảy thai là 0,0% (0/2), có hai bệnh nhân sinh con.
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ mang thai nhóm bệnh nhân được chuyển phôi nang trữ rã hai lần tương đương với nhóm chuyển phôi nang trữ rã một lần. Không có khác biệt về tỷ lệ mang thai, cân nặng của trẻ lúc sinh, tuần sinh, hoặc tỷ lệ sinh non, cho thấy sự an toàn cho trẻ sơ sinh. Do đó, các phôi được trữ lạnh lại có thể được sử dụng cho các chu kỳ điều trị.
Tốc độ thuỷ tinh hoá và rã đông có tác động đáng kể đến sự sống sót của phôi sau rã. Để tăng tốc độ này, dụng cụ chứa hở đã được phát triển. Tuy nhiên, không thể loại trừ nguy cơ nhiễm chéo từ quá trình thuỷ tinh hoá và bảo quản trong nito lỏng. Trong khi đó, dụng cụ chứa kín có thể tránh được ảnh hưởng của nito lỏng, đảm bảo chất lượng của phôi khi được bảo quản trong thời gian dài. Nếu phôi được trữ lạnh trong thời gian kéo dài, do đó, dụng cụ chứa kín sẽ phù hợp hơn dụng cụ chứa hở để bảo quản. Một số nghiên cứu báo cáo rằng, mặc dù tốc độ thuỷ tinh hoá và rã đông thấp hơn ở dụng cụ chứa kín so với dụng cụ chứa hở, cả hai loại dụng cụ chứa này đều mang lại kết quả lâm sàng tương tự nhau. Bên cạnh đó, không có khác biệt đáng kể về sự hạ bậc phôi nang sau rã và tỷ lệ mang thai giữa các nhóm. Qua đó cho thấy việc trữ lạnh – rã đông hai lần là an toàn.
Kết luận: tỷ lệ mang thai khi chuyển phôi nang trữ lạnh hai lần tương đương với chuyển đơn phôi nang trữ lạnh một lần. Ngoài ra, không có sự khác biệt về tỷ lệ sảy thai, cân nặng sơ sinh và tuần sinh. Qua nghiên cứu cho thấy, các phôi được trữ lạnh – rã đông hai và ba lần vẫn đủ điều kiện để chuyển phôi.
Nguồn: Mizobe, Y., Kuwatsuru, Y., Kuroki, Y., Fukumoto, Y., và cộng sự (2021). The effect of repeated cryopreservation and thawing using cryotip on the clinical outcomes of embryos. Reproductive Medicine and Biology, 20(2), 176-181.
Chuyển phôi trữ lạnh – rã đông đã trở thành một kỹ thuật thiết yếu trong công nghệ hỗ trợ sinh sản (assisted reproductive technologies - ART); với số chu kỳ điều trị ngày càng tăng. Kỹ thuật thuỷ tinh hoá có thể sử dụng nhiều dụng cụ chứa khác nhau, như Cryoloop, Cryotop và CryoTip, được phát triển nhằm trữ lạnh phôi và mang đến tỷ lệ phôi sống, thai lâm sàng cao. Có hai loại dụng cụ chứa được sử dụng trong quá trình thuỷ tinh hoá, gồm: dụng cụ chứa hở, như Cryploop và Cryotop, và dụng cụ chứa kín, như CryoTip. Dụng cụ chứa hở có thể đạt được tốc độ thuỷ tinh hoá và rã đông cực nhanh do tối thiểu thể tích môi trường vào thời điểm trữ lạnh, kết hợp với sự tiếp xúc trực tiếp của phôi và nito lỏng, giúp đạt được tỷ lệ phôi sống và mang thai tốt. Tuy nhiên, tồn tại một số lo ngại như mối nguy tiềm ẩn cho phôi do tiếp xúc với các nguồn lây nhiễm hiện diện trong nito lỏng vào thời điểm thuỷ tinh hoá hoặc trong quá trình bảo quản khi sử dụng dụng cụ chứa hở. Mặc dù chưa có nghiên cứu chứng minh rằng phôi hấp thụ bất kỳ nguồn lây nhiễm nào trong suốt quá trình thuỷ tinh hoá và bảo quản, nhưng việc nhiễm vẫn có thể xảy ra. Do đó, khi sử dụng dụng cụ chứa kín, phôi sẽ không tiếp xúc trực tiếp với nito lỏng, có thể giảm nguy cơ lây nhiễm cho phôi. Một số nghiên cứu cho thấy kết quả lâm sàng của CryoTip có thể so sánh với kết quả từ Cryoloop và Cryotop, giúp CryoTip đủ hiệu quả như là một dụng cụ chứa kín cho trữ lạnh phôi.
Trong một nghiên cứu, phôi giai đoạn tiền nhân được trữ lạnh, sau đó được rã đông và phát triển lên phôi dâu, được tái trữ lạnh - rã đông và phát triển thành phôi nang. Các phôi nang này sau đó được chuyển và cho kết quả là trẻ sinh sống. Trong một nghiên cứu khác, bệnh nhân sau khi chuyển phôi nang được trữ - rã hai lần đã có thai. Tuy nhiên, chỉ có một số ít bài báo cáo về tiên lượng của phôi trữ - rã nhiều lần, vì vậy, việc sử dụng những phôi này vẫn chưa rõ ràng. Do đó, nghiên cứu này so sánh kết quả chuyển phôi nang được trữ - rã hai lần hoặc ba lần so với những phôi nang được trữ - rã chỉ một lần bằng CryoTip.
Phương pháp: Nghiên cứu ghi nhận kết quả của 240 bệnh nhân với 388 chu kỳ chuyển đơn phôi nang trữ lạnh, từ 04/2012 – 03/2014. Phôi được chia thành ba nhóm: (A) phôi nang trữ lạnh một lần, (B) phôi nang trữ lạnh hai lần và (C) phôi nang trữ lạnh ba lần.
Kết quả: Về kết quả trữ lạnh phôi nang một lần so với hai lần: không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ mang thai (43,7%-46,3%), sảy thai (23,7%-29,1%), cân nặng trẻ (3.002-3.079 g) và tuần sinh (37,62-38,01). Tỷ lệ hạ bậc phôi sau rã đông là 16,0% (49/306) ở nhóm A và 19,5% (16/82) ở nhóm B. Tỷ lệ mang thai ở những phôi hạ bậc là 32,7% (16/49) ở nhóm A và 37,5% (6/16) ở nhóm B. Tỷ lệ sảy thai của các phôi nang hạ bậc là 18,8% (3/16) ở nhóm A và 33,3% (2/6) ở nhóm B. Về kết quả trữ lạnh phôi nang ba lần: tỷ lệ có thai là 33,3% (2/6) và tỷ lệ sảy thai là 0,0% (0/2), có hai bệnh nhân sinh con.
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ mang thai nhóm bệnh nhân được chuyển phôi nang trữ rã hai lần tương đương với nhóm chuyển phôi nang trữ rã một lần. Không có khác biệt về tỷ lệ mang thai, cân nặng của trẻ lúc sinh, tuần sinh, hoặc tỷ lệ sinh non, cho thấy sự an toàn cho trẻ sơ sinh. Do đó, các phôi được trữ lạnh lại có thể được sử dụng cho các chu kỳ điều trị.
Tốc độ thuỷ tinh hoá và rã đông có tác động đáng kể đến sự sống sót của phôi sau rã. Để tăng tốc độ này, dụng cụ chứa hở đã được phát triển. Tuy nhiên, không thể loại trừ nguy cơ nhiễm chéo từ quá trình thuỷ tinh hoá và bảo quản trong nito lỏng. Trong khi đó, dụng cụ chứa kín có thể tránh được ảnh hưởng của nito lỏng, đảm bảo chất lượng của phôi khi được bảo quản trong thời gian dài. Nếu phôi được trữ lạnh trong thời gian kéo dài, do đó, dụng cụ chứa kín sẽ phù hợp hơn dụng cụ chứa hở để bảo quản. Một số nghiên cứu báo cáo rằng, mặc dù tốc độ thuỷ tinh hoá và rã đông thấp hơn ở dụng cụ chứa kín so với dụng cụ chứa hở, cả hai loại dụng cụ chứa này đều mang lại kết quả lâm sàng tương tự nhau. Bên cạnh đó, không có khác biệt đáng kể về sự hạ bậc phôi nang sau rã và tỷ lệ mang thai giữa các nhóm. Qua đó cho thấy việc trữ lạnh – rã đông hai lần là an toàn.
Kết luận: tỷ lệ mang thai khi chuyển phôi nang trữ lạnh hai lần tương đương với chuyển đơn phôi nang trữ lạnh một lần. Ngoài ra, không có sự khác biệt về tỷ lệ sảy thai, cân nặng sơ sinh và tuần sinh. Qua nghiên cứu cho thấy, các phôi được trữ lạnh – rã đông hai và ba lần vẫn đủ điều kiện để chuyển phôi.
Nguồn: Mizobe, Y., Kuwatsuru, Y., Kuroki, Y., Fukumoto, Y., và cộng sự (2021). The effect of repeated cryopreservation and thawing using cryotip on the clinical outcomes of embryos. Reproductive Medicine and Biology, 20(2), 176-181.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Các tổng quan hệ thống về châm cứu cho phụ nữ hiếm muộn thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm và chuyển phôi - Ngày đăng: 04-09-2021
Chỉ số khối cơ thể của người phụ nữ trước sinh có liên quan đến nhiễm sắc thể phôi và tỉ lệ sinh sống sau chuyển đơn phôi ngày 5 nguyên bội - Ngày đăng: 04-09-2021
Ảnh hưởng của béo phì trong hiếm muộn - Ngày đăng: 06-09-2021
Ảnh hưởng của thời điểm thụ tinh đến kết quả điều trị IVF cổ điển và ICSI - Ngày đăng: 04-09-2021
Hiệu quả của chuyển phôi đông lạnh từ r.ICSI trong các chu kỳ IVF cổ điển: Một nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 03-09-2021
Số lượng noãn hoặc phôi cần để tối ưu hoá tỉ lệ sinh sống và tỉ lệ sinh sống cộng dồn trong các chu kỳ IVF kích thích buồng trứng nhẹ - Ngày đăng: 03-09-2021
Mối tương quan giữa kết quả thụ tinh bất thường trong ICSI và các thông số tinh dịch đồ bất thường: một nghiên cứu quan sát hồi cứu trên 1855 trường hợp - Ngày đăng: 03-09-2021
Kết quả ICSI trên 117 bệnh nhân có bất thường tinh trùng đuôi ngắn nghiêm trọng trong một nghiên cứu quan sát hồi cứu - Ngày đăng: 02-09-2021
Kết quả IVF cộng dồn sau khi thu nhận tinh trùng từ tinh hoàn: chúng ta có nên sử dụng tinh trùng bất động cho ICSI? - Ngày đăng: 02-09-2021
TINH TRÙNG ĐẦU KIM VÀ KẾT QUẢ TIÊM TINH TRÙNG VÀO BÀO TƯƠNG NOÃN (ICSI) - Ngày đăng: 30-08-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK