Tin tức
on Wednesday 19-05-2021 4:10pm
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Trần Vĩnh Thiên Ngọc - IVFMD
Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (ART) đều có liên quan đến các rủi ro tiềm ẩn, chủ yếu liên quan đến đa thai với tỷ lệ từ 20% đến 25%. Một trong những nguyên nhân dẫn đến đa thai là do nhiều phôi được chuyển cùng một lúc, nguy cơ này có thể tránh được bằng cách chuyển đơn phôi chọn lọc (eSET). Đây cũng là xu hướng đang được phát triển trên toàn thế giới.
eSET là chọn lựa một phôi có chất lượng tốt nhất để chuyển, trong khi các phôi còn lại được trữ lạnh. Làm thế nào để có thể áp dụng được chính sách eSET để giảm tỷ lệ đa thai mà không ảnh hưởng đến tỷ lệ thành công vẫn là một thách thức vì nó phụ thuộc vào các yếu tố như bảo hiểm y tế, luật pháp, hướng dẫn xã hội, y tế và văn hóa. Ở các nước châu Âu, trung bình 20% chu kỳ IVF là eSET, nhưng tỷ lệ này có thể đạt tới 69% ở Thụy Điển. Tại Hoa Kỳ, eSET ngày càng tăng, với 28,5% chu kỳ IVF là eSET ở phụ nữ dưới 36 tuổi vào năm 2014. Các nước thuộc khu vực Mỹ Latinh có tỷ lệ eSET thấp hơn với 2% tổng số chu kỳ IVF. Nghiên cứu dưới đây nhằm so sánh tỷ lệ thành công cộng dồn khi chuyển đơn phôi chọn lọc (eSET) với tỷ lệ thành công của chuyển 2 phôi cùng lúc (DET) trong một lần chuyển phôi ở nhóm bệnh nhân tiên lượng tốt.
Kết quả thu nhận được từ 610 cặp vợ chồng được điều trị IVF. Các bệnh nhân được chia thành 2 nhóm: nhóm eSET (n = 237) bao gồm những bệnh nhân chuyển đơn phôi chọn lọc, nếu không có thai, họ sẽ được chuyển đơn phôi tiếp tục; và nhóm DET (n = 373) chuyển 2 phôi chất lượng tốt ngay trong lần chuyển đầu tiên. Tỷ lệ thai lâm sàng sau khi chuyển 2 phôi là tương đương nhau giữa hai nhóm (DET là 46,6% so với eSET là 45,9%; P = 0,898). Tỷ lệ đa thai thấp hơn đáng kể trong nhóm eSET so với DET (DET là 32,2% so với eSET là 6,7%; P <0,001).
Việc chuyển nhiều phôi vẫn được thực hiện theo mong muốn của bệnh nhân, bằng chứng là DET vẫn là phương pháp thực hành phổ biến nhất trên thế giới. Để thúc đẩy chính sách eSET, cần có một số chiến lược và công cụ như tư vấn cá nhân, thông tin kiến thức liên quan đến nguy cơ của thai kỳ đa thai, khuyến khích tài chính và các công cụ để giúp dự đoán cơ hội thành công khi thực hiện IVF. Số lượng phôi chuyển được quyết định dựa trên thỏa thuận chung giữa bệnh nhân và bác sĩ, sau khi giải thích về ưu và nhược điểm của từng trường hợp. Đây là một trong những hạn chế của nghiên cứu này vì không có quy tắc rõ ràng nào về việc khi nào chuyển đơn phôi và khi nào chuyển 2 phôi. Một hạn chế khác là không phải tất cả bệnh nhân trong nhóm eSET thất bại sau lần chuyển phôi đầu tiên đều tiếp tục chuyển đơn phôi, dẫn đến giảm số lượng bệnh nhân trong việc tính toán tỷ lệ thai cộng dồn. Mặt khác, các cặp vợ chồng cho rằng việc chuyển 2 phôi có thể làm tăng cơ hội sinh sống, thúc đẩy họ chọn chuyển 2 phôi sau khi thất bại eSET. Tóm lại, eSET nên được tư vấn để áp dụng cho các cặp vợ chồng tiên lượng tốt, vì chiến lược này giúp duy trì tỷ lệ thai lâm sàng tích lũy, tránh đa thai, và do đó tránh được các biến chứng cho mẹ, cho trẻ sơ sinh và giảm chi phí điều trị sau sinh.
Nguồn: Monteleone, P. A., Peregrino, P. F., Baracat, E. C., & Serafini, P. C. (2018). Transfer of 2 Embryos Using a Double-Embryo Transfer Protocol Versus 2 Sequential Single-Embryo Transfers: The Impact on Multiple Pregnancy. Reproductive Sciences, 25(10), 1501-1508.
Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (ART) đều có liên quan đến các rủi ro tiềm ẩn, chủ yếu liên quan đến đa thai với tỷ lệ từ 20% đến 25%. Một trong những nguyên nhân dẫn đến đa thai là do nhiều phôi được chuyển cùng một lúc, nguy cơ này có thể tránh được bằng cách chuyển đơn phôi chọn lọc (eSET). Đây cũng là xu hướng đang được phát triển trên toàn thế giới.
eSET là chọn lựa một phôi có chất lượng tốt nhất để chuyển, trong khi các phôi còn lại được trữ lạnh. Làm thế nào để có thể áp dụng được chính sách eSET để giảm tỷ lệ đa thai mà không ảnh hưởng đến tỷ lệ thành công vẫn là một thách thức vì nó phụ thuộc vào các yếu tố như bảo hiểm y tế, luật pháp, hướng dẫn xã hội, y tế và văn hóa. Ở các nước châu Âu, trung bình 20% chu kỳ IVF là eSET, nhưng tỷ lệ này có thể đạt tới 69% ở Thụy Điển. Tại Hoa Kỳ, eSET ngày càng tăng, với 28,5% chu kỳ IVF là eSET ở phụ nữ dưới 36 tuổi vào năm 2014. Các nước thuộc khu vực Mỹ Latinh có tỷ lệ eSET thấp hơn với 2% tổng số chu kỳ IVF. Nghiên cứu dưới đây nhằm so sánh tỷ lệ thành công cộng dồn khi chuyển đơn phôi chọn lọc (eSET) với tỷ lệ thành công của chuyển 2 phôi cùng lúc (DET) trong một lần chuyển phôi ở nhóm bệnh nhân tiên lượng tốt.
Kết quả thu nhận được từ 610 cặp vợ chồng được điều trị IVF. Các bệnh nhân được chia thành 2 nhóm: nhóm eSET (n = 237) bao gồm những bệnh nhân chuyển đơn phôi chọn lọc, nếu không có thai, họ sẽ được chuyển đơn phôi tiếp tục; và nhóm DET (n = 373) chuyển 2 phôi chất lượng tốt ngay trong lần chuyển đầu tiên. Tỷ lệ thai lâm sàng sau khi chuyển 2 phôi là tương đương nhau giữa hai nhóm (DET là 46,6% so với eSET là 45,9%; P = 0,898). Tỷ lệ đa thai thấp hơn đáng kể trong nhóm eSET so với DET (DET là 32,2% so với eSET là 6,7%; P <0,001).
Việc chuyển nhiều phôi vẫn được thực hiện theo mong muốn của bệnh nhân, bằng chứng là DET vẫn là phương pháp thực hành phổ biến nhất trên thế giới. Để thúc đẩy chính sách eSET, cần có một số chiến lược và công cụ như tư vấn cá nhân, thông tin kiến thức liên quan đến nguy cơ của thai kỳ đa thai, khuyến khích tài chính và các công cụ để giúp dự đoán cơ hội thành công khi thực hiện IVF. Số lượng phôi chuyển được quyết định dựa trên thỏa thuận chung giữa bệnh nhân và bác sĩ, sau khi giải thích về ưu và nhược điểm của từng trường hợp. Đây là một trong những hạn chế của nghiên cứu này vì không có quy tắc rõ ràng nào về việc khi nào chuyển đơn phôi và khi nào chuyển 2 phôi. Một hạn chế khác là không phải tất cả bệnh nhân trong nhóm eSET thất bại sau lần chuyển phôi đầu tiên đều tiếp tục chuyển đơn phôi, dẫn đến giảm số lượng bệnh nhân trong việc tính toán tỷ lệ thai cộng dồn. Mặt khác, các cặp vợ chồng cho rằng việc chuyển 2 phôi có thể làm tăng cơ hội sinh sống, thúc đẩy họ chọn chuyển 2 phôi sau khi thất bại eSET. Tóm lại, eSET nên được tư vấn để áp dụng cho các cặp vợ chồng tiên lượng tốt, vì chiến lược này giúp duy trì tỷ lệ thai lâm sàng tích lũy, tránh đa thai, và do đó tránh được các biến chứng cho mẹ, cho trẻ sơ sinh và giảm chi phí điều trị sau sinh.
Nguồn: Monteleone, P. A., Peregrino, P. F., Baracat, E. C., & Serafini, P. C. (2018). Transfer of 2 Embryos Using a Double-Embryo Transfer Protocol Versus 2 Sequential Single-Embryo Transfers: The Impact on Multiple Pregnancy. Reproductive Sciences, 25(10), 1501-1508.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Phương pháp lựa chọn tế bào bằng hoạt hóa từ tính (Magnetic Activated Cell Sorting - MACS): Phương pháp chọn lọc tinh trùng hiệu quả trong trường hợp phân mảnh dna tinh trùng ở mức độ cao - Ngày đăng: 18-05-2021
Chọn lọc tinh trùng bằng phương pháp dòng vi lỏng có giúp cải thiện tỷ lệ thành công trong ART ở nhóm vô sinh nam hay không? - Ngày đăng: 18-05-2021
ATP là yếu tố tạo nên sự khác biệt khi dùng Sr2+ để kích hoạt dao động Ca2+ trong noãn chuột và noãn người - Ngày đăng: 15-05-2021
Hiệu quả điều trị khi ICSI sử dụng mẫu tinh trùng TESE tươi so với mẫu tinh trùng TESE trữ lạnh - Ngày đăng: 15-05-2021
Nuôi cấy phôi dài ngày làm tăng nguy cơ sinh đôi đồng hợp tử, nhưng không liên quan đến các thao tác trên màng trong suốt hay quy trình trữ - rã phôi - Ngày đăng: 15-05-2021
Đồng thuận Cairo về điều kiện nuôi cấy trong IVF “Chỉ có một điều thực sự quan trọng trong một phòng lab thụ tinh ống nghiệm, đó là: tất cả mọi thứ” (phần II) - Ngày đăng: 05-05-2021
Đồng thuận Cairo về điều kiện nuôi cấy trong IVF “Chỉ có một điều thực sự quan trọng trong một phòng lab thụ tinh ống nghiệm, đó là: tất cả mọi thứ” (Phần I) - Ngày đăng: 05-05-2021
Phương pháp hỗ trợ phôi thoát màng bằng laser có tốt hơn bằng cơ học trong việc cải thiện tỉ lệ thai lâm sàng ở chu kỳ chuyển phôi trữ lạnh? - Ngày đăng: 05-05-2021
SIÊU ÂM THAI PHỤ NHIỄM SARS-CoV-2 - Ngày đăng: 04-05-2021
Các yếu tố rủi ro đối với các cặp sinh đôi cùng trứng trong các chu kỳ IVF-ICSI: Một nghiên cứu bệnh - chứng - Ngày đăng: 04-05-2021
Ảnh hưởng của thừa cân và bệnh vẩy nến ở phụ nữ điều trị bằng kĩ thuật ICSI và tình trạng sức khỏe của trẻ sơ sinh - Ngày đăng: 04-05-2021
Hình thái ICM có khả năng tiên lượng mạnh nhất tỉ lệ sinh sống trong chu kỳ chuyển đơn phôi trữ - Ngày đăng: 30-04-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK