Tin tức
on Friday 30-04-2021 11:27pm
Danh mục: Tin quốc tế
Chu Khánh Linh – IVFMD Vạn Hạnh
ICSI là một kỹ thuật hiệu quả của công nghệ hỗ trợ sinh sản (ART) cho các trường hợp nam giới bất thường về tinh trùng. Kỹ thuật này thường được áp dụng trong các trường hợp khi các cặp vợ chồng thất bại IVF cổ điển. Mặc dù tỷ lệ thành công ICSI tương đối cao, nhưng thất bại thụ tinh hoàn toàn (TFF) vẫn xảy ra khoảng 1-5% chu kỳ ICSI, và có thể lặp lại trong các chu kỳ ART tiếp. Điều này được gây ra bởi nhiều nguyên nhân nhưng sự thất bại của cơ chế hoạt hoá noãn được coi là nguyên nhân chính.
Hoạt hóa noãn là một quá trình phức tạp ở hầu hết các động vật hữu nhũ, được kích hoạt bởi sự xâm nhập của tinh trùng dẫn đến sự giải phóng canxi từ mạng lưới nội chất, gây ra xung dao động canxi nội bào noãn. Canxi được xem là tín hiệu then chốt để kích hoạt noãn bào thành công và khởi đầu cho quá trình tạo phôi tiếp sau đó. Hiện tại, các trường hợp thất bại ICSI thường được giải quyết thông qua hoạt hoá noãn nhân tạo (AOA), liên quan đến cảm ứng nhân tạo giải phóng Ca2 + sau ICSI. Trong đó, calcium ionophores như calcimycin (A23187), ionomycin, hoặc kết hợp cả 2 ionophores được sử dụng phổ biến.
Do đó, mục đích của nghiên cứu này là đánh giá hiệu quả của việc sử dụng A23187 đối với tỷ lệ thụ tinh, phôi phân chia, tỷ lệ lên phôi nang và mang thai sau ICSI đối với các cặp vợ chồng bị tinh trùng ít yếu dị dạng (OAT) hoặc nguyên nhân vô sinh từ nữ giới như lớn tuổi, hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) hoặc suy buồng trứng nguyên phát (POI).
Đây là một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên 796 cặp vợ chồng trải qua AOA với A23187 sau ICSI từ năm 2016 đến 2018. Tất cả các noãn MII của những người tham gia được cho tiếp xúc với 5µmol/l ionophore trong 15 phút ngay sau khi ICSI, nuôi cấy đến giai đoạn phôi nang và sau đó chuyển phôi hoặc được trữ lạnh để chuyển trong chu kỳ tiếp theo. Các chu kỳ trước đó của cùng một bệnh nhân được coi là nhóm đối chứng.
Trên cơ sở một nhóm gồm 1261 chu kỳ ICSI và 796 chu kỳ hoạt hoá noãn sau nhân tạo sau ICSI (ICSI-AOA), kết quả cho thấy rằng tỷ lệ làm tổ, tỉ lệ beta-hCG dương, tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ trẻ sinh sống được cải thiện đáng kể so với những chu kỳ trước (P < 0,001). Ngoài ra, so với các chu kỳ trước, tỷ lệ tạo phôi nang và phôi nang chất lượng tốt đã tăng đáng kể đối với các cặp vợ chồng có nguyên nhân vô sinh đến từ chồng (OAT), vô sinh không rõ nguyên nhân hoặc do cả hai trong chu kỳ ICSI-AOA. Tỷ lệ sẩy thai đã giảm đáng kể đối với các cặp vợ chồng có nguyên nhân vô sinh do OAT, PCOS và vô sinh không rõ nguyên nhân. Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể nào được tìm thấy về tỷ lệ thụ tinh, sự phát triển của phôi hoặc kết quả trẻ sinh sống ở những bệnh nhân bị POI giữa các nhóm ICSI và ICSI-AOA.
Như vậy, nghiên cứu này cho thấy AOA sử dụng canxi ionophore A23187 dẫn đến tỷ lệ thụ tinh, phát triển phôi thai và tỷ lệ thai lâm sàng tốt hơn ở một số nhóm nhỏ các cặp vợ chồng vô sinh có tiền sử thất bại điều trị trong các chu kỳ trước đó.
Nguồn: Lv, Mingrong, et al. "Artificial oocyte activation to improve reproductive outcomes in couples with various causes of infertility: a retrospective cohort study." Reproductive biomedicine online 40.4 (2020): 501-509.
ICSI là một kỹ thuật hiệu quả của công nghệ hỗ trợ sinh sản (ART) cho các trường hợp nam giới bất thường về tinh trùng. Kỹ thuật này thường được áp dụng trong các trường hợp khi các cặp vợ chồng thất bại IVF cổ điển. Mặc dù tỷ lệ thành công ICSI tương đối cao, nhưng thất bại thụ tinh hoàn toàn (TFF) vẫn xảy ra khoảng 1-5% chu kỳ ICSI, và có thể lặp lại trong các chu kỳ ART tiếp. Điều này được gây ra bởi nhiều nguyên nhân nhưng sự thất bại của cơ chế hoạt hoá noãn được coi là nguyên nhân chính.
Hoạt hóa noãn là một quá trình phức tạp ở hầu hết các động vật hữu nhũ, được kích hoạt bởi sự xâm nhập của tinh trùng dẫn đến sự giải phóng canxi từ mạng lưới nội chất, gây ra xung dao động canxi nội bào noãn. Canxi được xem là tín hiệu then chốt để kích hoạt noãn bào thành công và khởi đầu cho quá trình tạo phôi tiếp sau đó. Hiện tại, các trường hợp thất bại ICSI thường được giải quyết thông qua hoạt hoá noãn nhân tạo (AOA), liên quan đến cảm ứng nhân tạo giải phóng Ca2 + sau ICSI. Trong đó, calcium ionophores như calcimycin (A23187), ionomycin, hoặc kết hợp cả 2 ionophores được sử dụng phổ biến.
Do đó, mục đích của nghiên cứu này là đánh giá hiệu quả của việc sử dụng A23187 đối với tỷ lệ thụ tinh, phôi phân chia, tỷ lệ lên phôi nang và mang thai sau ICSI đối với các cặp vợ chồng bị tinh trùng ít yếu dị dạng (OAT) hoặc nguyên nhân vô sinh từ nữ giới như lớn tuổi, hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS) hoặc suy buồng trứng nguyên phát (POI).
Đây là một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu trên 796 cặp vợ chồng trải qua AOA với A23187 sau ICSI từ năm 2016 đến 2018. Tất cả các noãn MII của những người tham gia được cho tiếp xúc với 5µmol/l ionophore trong 15 phút ngay sau khi ICSI, nuôi cấy đến giai đoạn phôi nang và sau đó chuyển phôi hoặc được trữ lạnh để chuyển trong chu kỳ tiếp theo. Các chu kỳ trước đó của cùng một bệnh nhân được coi là nhóm đối chứng.
Trên cơ sở một nhóm gồm 1261 chu kỳ ICSI và 796 chu kỳ hoạt hoá noãn sau nhân tạo sau ICSI (ICSI-AOA), kết quả cho thấy rằng tỷ lệ làm tổ, tỉ lệ beta-hCG dương, tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ trẻ sinh sống được cải thiện đáng kể so với những chu kỳ trước (P < 0,001). Ngoài ra, so với các chu kỳ trước, tỷ lệ tạo phôi nang và phôi nang chất lượng tốt đã tăng đáng kể đối với các cặp vợ chồng có nguyên nhân vô sinh đến từ chồng (OAT), vô sinh không rõ nguyên nhân hoặc do cả hai trong chu kỳ ICSI-AOA. Tỷ lệ sẩy thai đã giảm đáng kể đối với các cặp vợ chồng có nguyên nhân vô sinh do OAT, PCOS và vô sinh không rõ nguyên nhân. Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể nào được tìm thấy về tỷ lệ thụ tinh, sự phát triển của phôi hoặc kết quả trẻ sinh sống ở những bệnh nhân bị POI giữa các nhóm ICSI và ICSI-AOA.
Như vậy, nghiên cứu này cho thấy AOA sử dụng canxi ionophore A23187 dẫn đến tỷ lệ thụ tinh, phát triển phôi thai và tỷ lệ thai lâm sàng tốt hơn ở một số nhóm nhỏ các cặp vợ chồng vô sinh có tiền sử thất bại điều trị trong các chu kỳ trước đó.
Nguồn: Lv, Mingrong, et al. "Artificial oocyte activation to improve reproductive outcomes in couples with various causes of infertility: a retrospective cohort study." Reproductive biomedicine online 40.4 (2020): 501-509.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Noãn và hợp tử người có thể được thủy tinh hóa chỉ sau 2 phút trong môi trường trữ với các CPA tiêu chuẩn - Ngày đăng: 30-04-2021
Tác động của địa điểm và thời gian xử lý mẫu tinh dịch lên các thông số tinh trùng và kết quả IVF/ICSI - Ngày đăng: 30-04-2021
Khả năng thu nhận tinh trùng và kết quả ICSI ở nam giới vô tinh không do tắc: một nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích cộng gộp - Ngày đăng: 28-04-2021
Mối tương quan giữa đặc điểm hình thái phôi 3PN và nguy cơ bất thường NST ở các chu kỳ ICSI - Ngày đăng: 28-04-2021
Nồng độ của các nội tiết tố và các đặc điểm chẩn đoán của Hội chứng buồng trứng đa nang ở thanh thiếu niên - Ngày đăng: 28-04-2021
Tổng quan hệ thống và phân tích gộp về những yếu tố lối sống ở nữ giới và nguy cơ sẩy thai liên tiếp - Ngày đăng: 27-04-2021
Ảnh hưởng của chế độ ăn ‘‘Địa Trung Hải’’ lên sự phát triển của phôi người trong ống nghiệm: một thử nghiệm ngẫu nhiên mù đôi có đối chứng - Ngày đăng: 26-04-2021
So sánh kết cục thai kỳ của thai giới hạn tăng trưởng theo định nghĩa từ các hướng dẫn thực hành khác nhau - Ngày đăng: 26-04-2021
Tăng trưởng ở trẻ được sinh ra nhờ công nghệ hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 26-04-2021
Mối quan hệ giữa sự phân mảnh DNA ở tinh trùng và tỷ lệ thai sau bơm tinh trùng vào tử cung (IUI). Có nên hạ thấp ngưỡng DFI không? - Ngày đăng: 26-04-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK