Tin tức
on Monday 04-01-2021 4:44pm
Danh mục: Tin quốc tế
CTV Nguyễn Vĩnh Xuân Phương
Trong thời đại công nghiệp mới, ô nhiễm không khí ngày càng trở nên nghiêm trọng và trở thành mối quan ngại đối với sức khỏe con người. Ô nhiễm không khí có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư, bệnh lý hô hấp và tim mạch. Các tác nhân gây ô nhiễm không khí có thể phân làm 4 loại chính: dạng khí (như sulfur dioxide, nitrate oxide và carbon monoxide), các hợp chất hữu cơ (dung môi hữu cơ hoặc dioxin), kim loại nặng (chì và đồng) và bụi mịn (PM10 PM2.5-10 và PM2.5). Nghiên cứu in vitro và in vivo cho thấy các tác nhân gây ô nhiễm không khí có thể hoạt động như là những yếu tố gây rối loạn nội tiết, gia tăng stress oxi hóa và ảnh hưởng cấu trúc di truyền. Một số chất ô nhiễm như đồng, chì và diesel có thể gây rối loạn nội tiết, từ đó ảnh hưởng đến khả năng sinh sản nữ. Ngoài ra, các chất gây rối loạn nội tiết này còn có thể ảnh hưởng đến trục hoạt động của tuyến giáp, gây rối loạn chuyển hoá, như đề kháng insulin và béo phì, những yếu tố liên quan mật thiết với vô sinh.
Mối liên quan giữa ô nhiễm không khí và vô sinh nữ vẫn chưa được xác định. Vì vậy, Alessandro Conforti và cộng sự đã thực hiện tổng quan này nhằm rà soát một cách hệ thống các nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của ô nhiễm không khí lên vô sinh ở nữ giới. Các nhà nghiên cứu đã tìm kiếm toàn bộ cơ sở dữ liệu trên MEDLINE (PubMed) và SCOPUS để xác định tất cả các nghiên cứu liên quan chủ đề này đăng tải trước tháng 10/2017.
Việc tìm kiếm không có giới hạn về thời gian hoặc ngôn ngữ, chỉ giới hạn cho các nghiên cứu trên người. Các tác giả cũng tìm kiếm một cách thủ công danh sách tài liệu tham khảo của các nghiên cứu liên quan nhằm đảm bảo không bỏ sót bất kỳ nghiên cứu phù hợp nào. Nguy cơ sai lầm và đánh giá chất lượng các nghiên cứu được thực hiện bằng thước đo Newcastle-Ottawa.
Kết cục chính là tỉ lệ thụ thai sau khi quan hệ tự nhiên và tỉ lệ sinh sống sau điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Kết cục phụ là sẩy thai trong 3 tháng đầu thai kì, thai lưu, vô sinh, số noãn và phôi thu được. Có 11 bài báo được phân tích gộp.
Nghiên cứu cho thấy trong dân số IVF, nitrogen dioxide và ozone có liên quan đến giảm tỉ lệ sinh sống, trong khi bụi mịn 10 mm có liên quan đến tăng sẩy thai. Ngoài ra, trong dân số chung, bụi mịn 2.5 mm và từ 2.5 đến 10 mm có liên quan đến giảm khả năng thụ thai, trong khi đó sulfur dioxide, carbon monoxide và nitrogen dioxide liên quan đến nguy cơ sẩy thai và thai lưu gia tăng.
Hạn chế chính của nghiên cứu là thiết kế quan sát và hồi cứu. Hơn nữa, có sự khác biệt lớn giữa các nghiên cứu được phân tích gộp. Mặc dù cần thêm nhiều thử nghiệm lớn hơn trước khi rút ra những kết luận khẳng định, ô nhiễm không khí có vẻ là một vấn đề cần quan tâm đối với vô sinh nữ trong thời đại ngày nay.
Nguồn: Alessandro Conforti et al. Air pollution and female fertility: a systematic review of literature. Reprod Biol Endocrinol. 2018 Dec 30;16(1):117. doi: 10.1186/s12958-018-0433-z.
Trong thời đại công nghiệp mới, ô nhiễm không khí ngày càng trở nên nghiêm trọng và trở thành mối quan ngại đối với sức khỏe con người. Ô nhiễm không khí có liên quan đến tăng nguy cơ ung thư, bệnh lý hô hấp và tim mạch. Các tác nhân gây ô nhiễm không khí có thể phân làm 4 loại chính: dạng khí (như sulfur dioxide, nitrate oxide và carbon monoxide), các hợp chất hữu cơ (dung môi hữu cơ hoặc dioxin), kim loại nặng (chì và đồng) và bụi mịn (PM10 PM2.5-10 và PM2.5). Nghiên cứu in vitro và in vivo cho thấy các tác nhân gây ô nhiễm không khí có thể hoạt động như là những yếu tố gây rối loạn nội tiết, gia tăng stress oxi hóa và ảnh hưởng cấu trúc di truyền. Một số chất ô nhiễm như đồng, chì và diesel có thể gây rối loạn nội tiết, từ đó ảnh hưởng đến khả năng sinh sản nữ. Ngoài ra, các chất gây rối loạn nội tiết này còn có thể ảnh hưởng đến trục hoạt động của tuyến giáp, gây rối loạn chuyển hoá, như đề kháng insulin và béo phì, những yếu tố liên quan mật thiết với vô sinh.
Mối liên quan giữa ô nhiễm không khí và vô sinh nữ vẫn chưa được xác định. Vì vậy, Alessandro Conforti và cộng sự đã thực hiện tổng quan này nhằm rà soát một cách hệ thống các nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của ô nhiễm không khí lên vô sinh ở nữ giới. Các nhà nghiên cứu đã tìm kiếm toàn bộ cơ sở dữ liệu trên MEDLINE (PubMed) và SCOPUS để xác định tất cả các nghiên cứu liên quan chủ đề này đăng tải trước tháng 10/2017.
Việc tìm kiếm không có giới hạn về thời gian hoặc ngôn ngữ, chỉ giới hạn cho các nghiên cứu trên người. Các tác giả cũng tìm kiếm một cách thủ công danh sách tài liệu tham khảo của các nghiên cứu liên quan nhằm đảm bảo không bỏ sót bất kỳ nghiên cứu phù hợp nào. Nguy cơ sai lầm và đánh giá chất lượng các nghiên cứu được thực hiện bằng thước đo Newcastle-Ottawa.
Kết cục chính là tỉ lệ thụ thai sau khi quan hệ tự nhiên và tỉ lệ sinh sống sau điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Kết cục phụ là sẩy thai trong 3 tháng đầu thai kì, thai lưu, vô sinh, số noãn và phôi thu được. Có 11 bài báo được phân tích gộp.
Nghiên cứu cho thấy trong dân số IVF, nitrogen dioxide và ozone có liên quan đến giảm tỉ lệ sinh sống, trong khi bụi mịn 10 mm có liên quan đến tăng sẩy thai. Ngoài ra, trong dân số chung, bụi mịn 2.5 mm và từ 2.5 đến 10 mm có liên quan đến giảm khả năng thụ thai, trong khi đó sulfur dioxide, carbon monoxide và nitrogen dioxide liên quan đến nguy cơ sẩy thai và thai lưu gia tăng.
Hạn chế chính của nghiên cứu là thiết kế quan sát và hồi cứu. Hơn nữa, có sự khác biệt lớn giữa các nghiên cứu được phân tích gộp. Mặc dù cần thêm nhiều thử nghiệm lớn hơn trước khi rút ra những kết luận khẳng định, ô nhiễm không khí có vẻ là một vấn đề cần quan tâm đối với vô sinh nữ trong thời đại ngày nay.
Nguồn: Alessandro Conforti et al. Air pollution and female fertility: a systematic review of literature. Reprod Biol Endocrinol. 2018 Dec 30;16(1):117. doi: 10.1186/s12958-018-0433-z.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Ô nhiễm không khí và khả năng sinh sản ở nữ giới: một tổng quan y văn hệ thống - Ngày đăng: 04-01-2021
Mối liên quan giữa cần sa và khả năng sinh sản, sức khỏe tình dục và u tân sinh ở nam: một tổng quan hệ thống - Ngày đăng: 04-01-2021
Caffeine, rượu, hút thuốc lá và kết cục sinh sản ở những cặp vợ chồng điều trị hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 04-01-2021
Ảnh hưởng của nghiện heroin lên các thông số tinh trùng, sự chuyển đổi histone thành protamine và nồng độ hormone sinh dục huyết thanh - Ngày đăng: 04-01-2021
Tình trạng methyl hóa DNA tinh trùng toàn bộ của người hút thuốc và người không hút thuốc - Ngày đăng: 29-12-2020
Hệ thống nicotine điện tử và thai kỳ: nhận thức của thai phụ và nhân viên y tế - Ngày đăng: 29-12-2020
Sử dụng hệ thống nicotine điện tử trong thai kỳ và kết cục sinh sản: Một tổng quan y văn hệ thống - Ngày đăng: 29-12-2020
Hướng dẫn thực hành từ ISUOG: chẩn đoán và quản lý thai nhỏ so với tuổi thai và thai giới hạn tăng trưởng trong tử cung - Ngày đăng: 26-03-2021
Mối liên quan giữa việc sử dụng cần sa và thời gian thụ thai ở cả nam và nữ: phát hiện từ cuộc khảo sát National Survey of Family Growth - Ngày đăng: 23-12-2020
Mối liên quan giữa việc dùng caffeine ở mẹ và kết cục sinh: kết quả từ nghiên cứu Lifeways Cross Generation Cohort Study - Ngày đăng: 23-12-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK