Tin tức
on Thursday 17-09-2020 11:49am
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Lê Thị Bích Phượng- Chuyên viên phôi học- IVFMD Phú Nhuận
Bơm tinh trùng vào buồng tử cung (IUI) đã được báo cáo với tỉ lệ thai lâm sàng nằm trong khoảng 5-20%. Tuy nhiên so với những đứa trẻ được sinh ra tự nhiên, trẻ sinh ra từ IUI được báo cáo rằng tăng nguy cơ bất lợi về kết quả chu sinh như sinh non, nhẹ cân, thai nhỏ so với tuổi thai. Một câu hỏi được đặt ra là liệu những nguy cơ trên có liên quan đến đặc điểm chu kỳ IUI cũng như đặc điểm của bệnh nhân hay không.
Sự phát triển đầy đủ của nội mạc tử cung là yếu tố quan trọng cho sự phát triển và làm tổ của phôi. Đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá mối tương quan giữa độ dày nội mạc tử cung với kết quả thai và kết quả chu sinh của trẻ trong điều trị IVF/ICSI. Tuy nhiên mối quan hệ này trong điều trị bằng kỹ thuật IUI vẫn chưa được nghiên cứu rõ. Vì vậy Jialyu Huang và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá mối tương quan giữa độ dày nội mạc tử cung và kết quả thai trong chu kỳ IUI.
Nghiên cứu hồi cứu từ tháng 01/2008 đến tháng 12/2018 trên 1016 trẻ sinh ra bằng kỹ thuật IUI. Bệnh nhân được chia thành 3 nhóm dựa trên độ dày của nội mạc tử cung (EMT): ≤7,6; 7,7–13,0 và ≥ 13,1 mm. Kết cục chính bao gồm sinh non (PTB), nhẹ cân (LBW), thai nhỏ so với tuổi thai (SGA).
Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt đáng kể ở nhóm EMT ≤7,6 mm và EMT ≥13,1 mm về thời gian vô sinh, thời gian điều trị và nồng độ đỉnh E2. Các đặc điểm nền khác không có sự khác biệt. Không có sự khác biệt về tỉ lệ trẻ sinh non, nhẹ cân và thai nhỏ so với tuổi thai giữa 3 nhóm. So với nhóm EMT từ 7,7–13,0 mm, tỉ lệ PTB, LBW và SGA ở nhóm EMT ≤7,6 mm lần lượt là 5,5%; 6,4% và 7,3%.
Kết quả nghiên cứu cho thấy không có mối tương quan giữa độ dày nội mạc tử cung và kết quả trẻ sơ sinh bất lợi như sinh non, nhẹ cân và thai nhỏ so với tuổi thai. Nghiên cứu này giúp những bệnh nhân thực hiện IUI có nội mạc tử cung mỏng yên tâm hơn khi điều trị. Tuy nhiên cần có nghiên cứu tiến cứu với cỡ mẫu lớn hơn để cho kết quả với mức độ tin cậy cao hơn.
Nguồn: Association between endometrial thickness and neonatal outcomes in intrauterine insemination cycles: a retrospective analysis of 1,016 live-born singletons. Reproductive Biology and Endocrinology. 0.1186/s12958-020-00597-w 2020
Các tin khác cùng chuyên mục:
Quan hệ tình dục thời kỳ hậu sản - Ngày đăng: 15-09-2020
Mối tương quan giữa ung thư cổ tử cung và việc sử dụng thuốc lá của bạn tình - Ngày đăng: 15-09-2020
Ảnh hưởng của nồng độ Oxy trong hệ thống nuôi cấy phôi đối với kết quả sản khoa và sơ sinh - Ngày đăng: 14-09-2020
Mối tương quan giữa PLCζ ở tinh trùng và thất bại hoạt hóa noãn - Ngày đăng: 14-09-2020
Mối tương quan giữa sẩy thai liên tiếp và tỉ lệ bất thường nhiễm sắc thể ở phôi nang - Ngày đăng: 14-09-2020
Mối quan hệ giữa đáp ứng buồng trứng và kết quả chu sinh trong các chu kỳ IVF/ICSI sử dụng GNRH ANTAGONIST? - Ngày đăng: 27-03-2021
Tương quan giữa tuổi thai lúc sinh với tỷ lệ tử vong chu sinh và nhu cầu giáo dục đặc biệt ở song thai - Ngày đăng: 11-09-2020
Trữ phôi toàn bộ không làm tăng tỉ lệ sinh sống ở bệnh nhân lớn tuổi - Ngày đăng: 27-03-2021
Ảnh hưởng của tiền sử sinh mổ lên kết quả chuyển phôi trữ - Ngày đăng: 08-09-2020
Mối tương quan giữa chất lượng ICM và nguy cơ sẩy thai trong tam cá nguyệt đầu tiên của chu kỳ chuyển đơn phôi nang - Ngày đăng: 08-09-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK