Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 08-09-2020 11:26am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Lê Thị Bích Phượng- Chuyên viên phôi học- IVFMD Phú Nhuận

Chất lượng phôi đóng vai trò quan trọng trong việc làm tổ và hình thành một thai kỳ. Phôi chất lượng tốt đã được chứng minh là có tương quan thuận với tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ trẻ sinh sống. Hệ thống nuôi cấy phôi ngày càng cải thiện và phát triển cho phép nuôi cấy phôi dài ngày, hỗ trợ cho việc chuyển đơn phôi nang giúp giảm nguy cơ đa thai trong điều trị. Chất lượng phôi nang được đánh giá dựa trên độ nở rộng của khoang phôi, chất lượng ICM và TE. Nhiều nghiên cứu chứng minh rằng chuyển phôi nang chất lượng tốt cho kết quả điều trị tốt hơn so với chuyển phôi nang chất lượng kém. Bên cạnh đó, một số nghiên cứu báo cáo rằng chất lượng hình thái TE và ICM có tương quan đến sẩy thai, tuy nhiên một số nghiên cứu khác lại báo cáo rằng không có mối tương quan này. Do đó, việc xác định các chỉ tiêu hình thái phôi nang có tương quan đến sẩy thai là hữu ích để cải thiện kết quả mang thai bất lợi cho bệnh nhân IVF. Lệch bội được xem là yếu tố làm giảm khả năng làm tổ và tăng nguy cơ sẩy thai. Mối tương quan giữa số lượng nhiễm sắc thể và hình thái phôi đã được báo cáo trong những nghiên cứu trước đây tuy nhiên kết quả vẫn còn gây nhiều tranh cãi. Vì vậy Dayuan Shi và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh giá mối tương quan giữa hình thái phôi và sẩy thai trong tam cá nguyệt thứ nhất thông qua kết quả nhiễm sắc thể đồ của thai sẩy.



Nghiên cứu hồi cứu trên 2873 chu kỳ chuyển đơn phôi nang từ tháng 01/2013 đến tháng 04/2019. Chất lượng phôi được đánh giá dựa trên tiêu chuẩn Gardner. Kết quả nghiên cứu cho thấy:
Không có sự khác biệt về đặc điểm nền của bệnh nhân ở 2 nhóm có và không có sẩy thai. Mặc dù bệnh nhân lớn tuổi đã được loại bỏ khỏi nghiên cứu nhưng độ tuổi trung bình của bố và mẹ ở nhóm sẩy thai vẫn cao hơn nhóm không sẩy thai, độ dày nội mạc tử cung cũng mỏng hơn ở nhóm sẩy thai. Chuyển phôi trữ cho tỉ lệ sẩy thai cao hơn chuyển phôi tươi cũng như chuyển phôi nang ngày 6 cho tỉ lệ sẩy thai cao hơn chuyển phôi nang ngày 5. Kết quả phân tích logistic đơn biến cho thấy chất lượng TE giảm tương quan thuận với tăng tỉ lệ sẩy thai (OR 1,659; 95% CI; 1,149–2,396; P = 0,007), nhưng sau khi điều chỉnh lại tuổi mẹ lúc chọc hút, tuổi bố, độ dày nội mạc tử cung và 3 thông số đánh giá hình thái phôi nang cho kết quả không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Phân tích SNP trên 174 mẫu nhung mao màng đệm ở thai sẩy có tỉ lệ bất thường nhiễm sắc thể chiếm 47,7%. Không có sự khác biệt giữa hai nhóm nguyên bội và lệch bội về tuổi mẹ và bố, BMI, chẩn đoán vô sinh, phương pháp tạo phôi. Có mối tương quan về nhiễm sắc thể đồ của mẫu sẩy thai và chất lượng ICM của phôi chuyển. Sẩy thai với nhiễm sắc thể đồ bình thường có tỉ lệ ICM loại B nhiều hơn so với nhiễm sắc thể đồ bất thường (OR 2,474; 95% CI; 1,311–4,699). Không có mối tương quan nào được tìm thấy giữa nhiễm sắc thể đồ với độ nở rộng và chất lượng TE, nhưng TE độ C có tỉ lệ sẩy thai nguyên bội cao hơn lệch bội (30,8% với 21,7%).

Sai hỏng nhiễm sắc thể phôi là yếu tố di truyền quan trọng đối với sẩy thai trong tam cá nguyệt đầu tiên, và chất lượng ICM là một chỉ số quan trọng có tương quan với sẩy thai. Kết quả nghiên cứu khuyến cáo phôi có ICM loại A nên được ưu tiên chuyển đơn phôi nang để giảm nguy cơ sẩy thai.

Nguồn: Association between the quality of inner cell mass and first trimester miscarriage after single blastocyst transfer. Reproductive Biology and Endocrinology. 10.1186/s12958-020-00595-y 2020.
Các tin khác cùng chuyên mục:
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK