Tin tức
on Thursday 14-05-2020 10:41am
Danh mục: Tin quốc tế
Huỳnh Trọng Kha, Chuyên viên phôi học – IVFMD Tân Bình
Như chúng ta đã biết, nang nguyên thủy là một trong những giai đoạn có tiềm năng ứng dụng lớn trong bảo tồn khả năng sinh sản của người phụ nữ. Tuy nhiên, việc phát triển nang noãn nguyên thủy trong môi trường In Vitro đến nay vẫn chưa đạt hiệu quả cao, nguyên nhân chính là vì sinh lý phát triển nang noãn rất phức tạp, đặc biệt từ giai đoạn sơ khai này. Mặc dù vậy, các nhà khoa học đã không ngừng nghiên cứu và tối ưu hóa quy trình In Vitro. Do đó, hàng loạt các công trình từ mô hình động vật như trên chuột về khả năng phát triển từ nuôi cấy nang nguyên thủy đạt đến giai đoạn trưởng thành đã được báo cáo (Eppig và cs, 1996; O’Brien và cs, 2003). Hiện nay, người ta đang dần phát triển được hệ thống nuôi cấy trên người với thành công tạo ra noãn Metaphase II (MII) từ nang nguyên thủy, nhưng hiệu quả còn thấp (Xiao và cs, 2015). Vì vậy, với mong muốn cải thiện tỷ lệ noãn MII thu được, McLaughlin và cộng sự (2018) đã thực hiện nghiên cứu với mục tiêu đánh giá hiệu quả mô hình nuôi cấy nang noãn nhiều bước, bao gồm các giai đoạn tăng trưởng nang noãn nguyên thủy trong ống nghiệm (In Vitro grown – IVG) và thu noãn nuôi cấy IVM (In-vitro Maturation).
Nghiên cứu được tiến hành trên mô buồng trứng của 10 người phụ nữ trong độ tuổi 25–39 tuổi, với kích thước mô 1 × 1 × 0.5 mm3. Mảnh mô sẽ được tiến hành nuôi cấy IVG trong 8 ngày, cho đến khi quan sát thấy nang đạt kích thước 100–150 μm thì tiến hành thu những nang noãn này và tiếp tục nuôi cấy 8 ngày tiếp theo. Sau đó, khi noãn đạt đường kính 100 μm sẽ tiến hành thu phức hợp noãn – cumulus (COC) và nuôi cấy IVM.
Kết quả thu được như sau:
- Phân tích mô học cho thấy 97% nang noãn trong mô nuôi cấy ban đầu là nang nguyên thủy và một phần nhỏ nang sơ cấp.
- Trong tổng 285 nang noãn phân tích ở ngày 0, có 80.5% nang nguyên thủy, 16.6% nang sơ cấp và 2.9% nang thứ cấp.
- Sau 8 ngày nuôi cấy đầu tiên, nang noãn có sự gia tăng tỷ lệ phát triển và kết quả ở 355 nang quan sát được có 43.1% nang nguyên thủy, 46.1% nang sơ cấp và 10.8% nang thứ cấp (P<0.05).
- Ở 8 ngày tiếp theo trong giai đoạn 2, tổng cộng có 87 nang có đường kính trung bình là 121 ± 2.5 μm (100–150 μm).
- Tuy nhiên, ở giai đoạn cuối tổng cộng có 32 phức hợp COC đường kính >100 μm bước vào IVM và 9 noãn xuất hiện thể cực thứ 2 sau 24 giờ nuôi cấy.
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, việc phát triển hệ thống nuôi cấy nang noãn từ giai đoạn nang nguyên thủy đến giai đoạn thu noãn trưởng thành là hoàn toàn khả thi. Bên cạnh đó, nghiên cứu giúp mở ra một hướng điều trị mới mang lại nhiều lợi ích hứa hẹn trong tương lai cho nhóm bệnh nhân POI, bảo quản mô buồng trứng đông lạnh, ... với mong muốn có con sinh học của chính mình.
Nguồn: M McLaughlin, D F Albertini, W H B Wallace, R A Anderson, E E Telfer, Metaphase II oocytes from human unilaminar follicles grown in a multi-step culture system, Molecular Human Reproduction, Volume 24, Issue 3, March 2018, Pages 135–142
Nguồn: M McLaughlin, D F Albertini, W H B Wallace, R A Anderson, E E Telfer, Metaphase II oocytes from human unilaminar follicles grown in a multi-step culture system, Molecular Human Reproduction, Volume 24, Issue 3, March 2018, Pages 135–142
Các tin khác cùng chuyên mục:
Lạc nội mạc tử cung ảnh hưởng đến chất lượng tinh trùng trong quá trình thụ tinh tự nhiên - Ngày đăng: 14-05-2020
Bổ sung MYOINOSITOL cải thiện thông số tinh trùng và tính toàn vẹn dna ở bệnh nhân oat sau quá trình trữ đông - Ngày đăng: 14-05-2020
Hiệu quả của việc bổ sung chất chống oxy hóa với các thông số tinh trùng ở nam giới vô sinh có hút thuốc - Ngày đăng: 14-05-2020
Điều trị băng huyết sau sinh bằng bóng chèn: tổng quan hệ thống và phân tích gộp - Ngày đăng: 11-05-2020
Đông lạnh noãn bằng phương pháp thuỷ tinh hoá không ảnh hưởng đến số lượng mtDNA phôi nang - Ngày đăng: 11-05-2020
Kích thích buồng trứng ở tuổi trước dậy thì: báo cáo ca - Ngày đăng: 11-05-2020
Nội mạc tử cung mỏng có liên quan đến nguy cơ trẻ sinh ra nhỏ hơn so với tuổi thai sau khi chuyển phôi tươi - Ngày đăng: 08-05-2020
Tăng nguy cơ mất dự trữ buồng trứng do hoá trị ở những bệnh nhân mang đột biến trên gene BRCA do thiếu hụt cơ chế sửa chữa các tổn thương dna mạch đôi ở noãn - Ngày đăng: 08-05-2020
Sự tự sụp khoang phôi là một Marker cho thấy kết cục thai kém: một nghiên cứu Timelapse - Ngày đăng: 08-05-2020
Ảnh hưởng của nồng độ protein trong môi trường chuyển phôi đến kết quả lâm sàng của chu kì IVF/ICSI - Ngày đăng: 08-05-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK