Tin tức
Tỉ lệ noãn non cao ảnh hưởng đến khả năng thụ tinh, làm giảm chất lượng phôi và giảm tỉ lệ sinh sống
on Friday 31-01-2020 9:19am
Danh mục: Tin quốc tế
BS. Trần Thị Thu Vân – Bệnh viện Mỹ Đức
Đối với thụ tinh trong ống nghiệm, việc tạo ra phôi có khả năng làm tổ và có tiềm năng phát triển tốt là yếu tố cực kỳ quan trọng. Số lượng noãn trưởng thành (noãn MII) ảnh hưởng rất lớn đến số lượng phôi khả dụng, đặc biệt với ICSI (Intra Cystoplasmic Sperm Injection – kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn) vì chỉ có noãn trưởng thành mới được thực hiện ICSI. Trong một chu kì thụ tinh trong ống nghiệm, người ta ước tính trung bình có đến khoảng 20% noãn chưa trưởng thành hay còn gọi là noãn non, bao gồm noãn GV và noãn MI.
Để tìm hiểu mối liên quan giữa tỉ lệ trưởng thành noãn và kết quả một chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm, Parrella và cộng sự đã thực hiện một nghiên cứu hồi cứu trên các cặp vợ chồng thụ tinh trong ống nghiệm với kỹ thuật ICSI từ tháng 9 năm 1993 đến tháng 4 năm 2017. Tổng cộng có 7672 chu kì điều trị được chia ra thành 4 nhóm theo tỉ lệ noãn trưởng thành: tối ưu (76-100%), trung bình (51-75%), thấp (26-50%) và rất thấp (1-25%). Sau đó, các biến số đặc điểm thụ tinh, tỉ lệ thai lâm sàng, tỉ lệ làm tổ, tỉ lệ sinh sống và tỉ lệ sẩy thai sẽ được so sánh giữa 4 nhóm.
Nghiên cứu đưa ra kết quả như sau:
Tỉ lệ noãn trưởng thành | |||||
Tối ưu (76-100%) |
Trung bình (51-75%) |
Thấp (26-50%) |
Rất thấp (1-25%) |
Giá trị P | |
Số lượng chu kì, n | 4838 | 2252 | 518 | 64 | |
Tỉ lệ thụ tinh bình thường (2PN) (%) | 78.9 ± 18 | 74.3 ± 21 | 71.2 ± 26 | 71.3 ± 34 | <0.0001 |
Tỉ lệ làm tổ | 0.33 ± 0.3 | 0.29 ± 0.3 | 0.24 ± 0.3 | 0.17 ± 0.3 | <0.0001 |
Tỉ lệ thai lâm sàng (%) | 3076/4838 (63.6) | 1372/2252 (60.9) | 270/518 (52.1) | 24/62 (37.5) | <0.0001 |
Tỉ lệ sinh sống (%) | 2380/4838 (49.2) | 1017/2252 (45.2) | 188/518 (36.3) | 17/64 (26.6) | <0.0001 |
Tỉ lệ sẩy thai (%) | 696/3076 (22.6) | 355/1372 (25.9) | 82/270 (30.4) | 7/24 (29.2) | 0.001 |
So sánh ở nhóm tối ưu và nhóm rất thấp, tỉ lệ thụ tinh bình thường (xuất hiện 2 tiền nhân) và tỉ lệ làm tổ ở nhóm tối ưu cao hơn có ý nghĩa thống kê (lần lượt 78.9% so với 71.3%, P<0.0001 và 33% so với 17%, P<0.0001). Đồng thời, tỉ lệ thụ tinh bất thường đặc biệt là xuất hiện 3 tiền nhân cao nhất ở nhóm có tỉ lệ trưởng thành noãn thấp nhất. Tỉ lệ sinh sống ở nhóm tối ưu cao hơn nhóm rất thấp 2.5 lần (KTC 95%: 1.4-4.4). Tỉ lệ sẩy thai cũng tăng tương quan với tỉ lệ noãn chưa trưởng thành (29.2% so với 22.6%, P=0.001). Các kết quả trên đều đã hiệu chỉnh với tuổi mẹ, số noãn chọc hút, số lượng và chất lượng phôi chuyển.
Từ đó có thể thấy, số lượng noãn chưa trưởng thành (GV và MI) càng tăng sẽ càng ảnh hưởng đến chất lượng của những noãn MII còn lại trong cùng chu kì. Mặc dù cơ chế vẫn chưa được hiểu rõ, nhưng Parella và cộng sự cho rằng điều này là do sự chưa trưởng thành của tế bào chất. Tế bào chất chưa trưởng thành sẽ ức chế sự tiết các hạt cortical vào khoang bên dưới màng zona pellucida (hay khoang quanh noãn perivitelline space), dẫn đến màng zona pellucida cứng hơn và ảnh hưởng đến việc thụ tinh. Ngoài ra, tế bào chất chưa trưởng thành còn dẫn đến việc màng bào tương đột nhiên bị vỡ trong quá trình ICSI. Nhược điểm của nghiên cứu này là thiếu nhóm chứng, được thực hiện trong thời gian dài khi mà kĩ thuật ICSI và nuôi cấy thay đổi liên tục và chưa kiểm soát tốt được các yếu tố gây nhiễu (confounder).
Tóm lại, noãn cần phải có sự trưởng thành cả về nhân và tế bào chất. Tỉ lệ noãn trưởng thành có thể giúp dự đoán tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ thai lâm sàng và tỉ lệ sinh sống khi thực hiện ICSI.
Nguồn: Alessandra Parrella, Mohamad Irani, Derek Keating, Stephen Chow, Zev Rosenwaks, Gianpiero D. Palermo. The proportion of nuclear mature oocytes affects ooplasmic competence of metaphase-II in relation to implantation and live birth with ICSI. Reproductive BioMedicine Online (2019), doi: https://doi.org/10.1016/j.rbmo.2019.06.005.
Nguồn ảnh: https://embryology.med.unsw.edu.au/embryology/index.php?title=File:Human-oocyte_to_blastocyst.jpg
Từ khóa: Tỉ lệ noãn non cao ảnh hưởng đến khả năng thụ tinh, làm giảm chất lượng phôi và giảm tỉ lệ sinh sống
Các tin khác cùng chuyên mục:
Nghiên cứu mới tìm thấy mối liên hệ giữa ô nhiễm không khí và tỷ lệ thành công IVF - Ngày đăng: 31-01-2020
Chỉ số khối cơ thể và sự phân mảnh dna tinh trùng - Ngày đăng: 31-01-2020
Bổ sung dầu cá và chức năng tinh hoàn - Ngày đăng: 31-01-2020
Có mối tương quan giữa điều kiện nuôi cấy với sự hình thành phôi nang và tỉ lệ lệch bội hay không? - Ngày đăng: 22-01-2020
Nhìn lại chẩn đoán và quản lý thai ở góc tử cung từ báo cáo loạt ca - Ngày đăng: 18-01-2020
Đóng góp của protein tinh trùng vào sự phát triển và hệ thượng di truyền của phôi tiền làm tổ - Ngày đăng: 18-01-2020
Có hay không mối liên hệ giữa hút thuốc lá trước sinh và bệnh lý đái tháo đường thai kỳ? - Ngày đăng: 17-01-2020
Vài trò của PGT-A trên nhóm bệnh nhân sẩy thai liên tiếp và thất bại làm tổ nhiều lần - Ngày đăng: 17-01-2020
Mối tương quan giữa số lượng phôi bào ngày 3 và kết cục điều trị trong chu kỳ chuyển phôi trữ ngày 5 - Ngày đăng: 17-01-2020
So sánh kết quả của hai nghiên cứu GRIT và TRUFFLE - Ngày đăng: 17-01-2020
Không có sự khác biệt về cân nặng trẻ sinh ra từ phôi ngày 3 với ngày 5 - Ngày đăng: 17-01-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Eastin Grand Hotel Saigon, thứ bảy 7.12.2024 và sáng chủ nhật ...
Năm 2020
Novotel Saigon Centre, Thứ Bảy ngày 2 . 11 . 2024
Năm 2020
JW Marriott Hotel & Suites Saigon (InterContinental Saigon), Chủ Nhật ngày ...
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Y học sinh sản tập 57, Qúy I/2021 - Thai lạc chỗ
Sách ra mắt ngày 27.9.2024 và gửi đến quý hội viên HOSREM còn ...
Kính mời tác giả gửi bài cộng tác trước 15.12.2024
FACEBOOK