Tin tức
on Wednesday 26-09-2018 8:35am
Danh mục: Tin quốc tế
Theo tổ chức Y tế thế giới, sinh non là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở trẻ trong 5 năm đầu đời. Những nghiên cứu về tầm soát, chẩn đoán và dự phòng sinh non vẫn đang liên tục được cập nhật để giảm thiểu tỷ lệ sinh non cũng như những ảnh hưởng tiêu cực của sinh non.
Hiện nay, các dấu chỉ sinh học đánh giá nguy cơ sinh non được các nhà nghiên cứu và lâm sàng quan tâm nhằm nâng cao khả năng chẩn đoán và dự phòng thích hợp. Một trong số đó là placental alpha microglobulin – 1 (PAMG – 1) và phosphorylated insulin-like growth factor-binding protein - 1 (phIGFBP - 1). Tuy nhiên, dữ liệu so sánh trực tiếp hai dấu chỉ này, kể cả thực hiện độc lập hay kết hợp đo chiều dài kênh cổ tử cung trong tiên đoán nguy cơ sinh non hiện tại vẫn chưa đủ.
Một nghiên cứu nhằm so sánh giữa PAMG – 1 và phIGFBP - 1 trong dự đoán khả năng sinh sớm có hoặc không kết hợp chiều dài kênh cổ tử cung ở nhóm thai phụ có dấu hiệu chuyển dạ sinh non vừa được công bố kết quả.
Nghiên cứu thực hiện trên 403 thai phụ tuổi thai từ 20 0/7 tuần đến 36 6/7 tuần; điều kiện màng ối còn nguyên vẹn, cổ tử cung mở ≤3cm, không khâu cổ tử cung và không giao hợp gần đây. Xét nghiệm PAMG – 1 và phIGFBP - 1, sau đó đo chiều dài kênh cổ tử cung ngả âm đạo (cervical length – CL), có làm mù kết quả PAMG – 1 và phIGFBP - 1 và nhân viên y tế.
Kết quả:
BS. Lê Tiểu My – Nhóm nghiên cứu sinh non Bệnh viện Mỹ Đức
Lược dịch từ : Prediction of spontaneous preterm delivery in women presenting with premature labor: a comparison of placenta alpha microglobulin-1, phosphorylated insulin-like growth factor binding protein-1, and cervical length – AJOG.
Hiện nay, các dấu chỉ sinh học đánh giá nguy cơ sinh non được các nhà nghiên cứu và lâm sàng quan tâm nhằm nâng cao khả năng chẩn đoán và dự phòng thích hợp. Một trong số đó là placental alpha microglobulin – 1 (PAMG – 1) và phosphorylated insulin-like growth factor-binding protein - 1 (phIGFBP - 1). Tuy nhiên, dữ liệu so sánh trực tiếp hai dấu chỉ này, kể cả thực hiện độc lập hay kết hợp đo chiều dài kênh cổ tử cung trong tiên đoán nguy cơ sinh non hiện tại vẫn chưa đủ.
Một nghiên cứu nhằm so sánh giữa PAMG – 1 và phIGFBP - 1 trong dự đoán khả năng sinh sớm có hoặc không kết hợp chiều dài kênh cổ tử cung ở nhóm thai phụ có dấu hiệu chuyển dạ sinh non vừa được công bố kết quả.
Nghiên cứu thực hiện trên 403 thai phụ tuổi thai từ 20 0/7 tuần đến 36 6/7 tuần; điều kiện màng ối còn nguyên vẹn, cổ tử cung mở ≤3cm, không khâu cổ tử cung và không giao hợp gần đây. Xét nghiệm PAMG – 1 và phIGFBP - 1, sau đó đo chiều dài kênh cổ tử cung ngả âm đạo (cervical length – CL), có làm mù kết quả PAMG – 1 và phIGFBP - 1 và nhân viên y tế.
Kết quả:
- PAMG – 1 dương tính 30/383 trường hợp, tương đương 7,8% và phIGFBP - 1 dương tính ở 113/383 trường hợp, tương đương 11,8%.
- Giá trị tiên đoán dương của PAMG – 1, phIGFBP - 1 và CL <25mm trong dự đoán sinh non lần lượt là 60%, 18,6%, 11,8%. Giá trị tiên đoán âm lần lượt là 97,7%, 98,2%, 96,5%. Tỷ lệ sinh non của nhóm này là 6,8%.
- Giá trị tiên đoán dương của PAMG – 1, phIGFBP - 1 cùng với CL <15 - 30mm lần lượt là 60,9% và 28,1%. Giá trị tiên đoán âm lần lượt là 97,1% và 97,8%. Tỷ lệ sinh non của nhóm này là 9,7%.
BS. Lê Tiểu My – Nhóm nghiên cứu sinh non Bệnh viện Mỹ Đức
Lược dịch từ : Prediction of spontaneous preterm delivery in women presenting with premature labor: a comparison of placenta alpha microglobulin-1, phosphorylated insulin-like growth factor binding protein-1, and cervical length – AJOG.
Các tin khác cùng chuyên mục:
TỔNG QUAN HỆ THỐNG VÀ PHÂN TÍCH GỘP CÁC THỬ NGHIỆM LÂM SÀNG CÓ NHÓM CHỨNG VỀ SỬ DỤNG PROGESTERONE Ở THAI KỲ ĐƠN THAI VỠ ỐI NON - Ngày đăng: 26-09-2018
Kết cục sinh sống một trẻ có hoặc không có hội chứng mất thai ở các chu kì IVF - Ngày đăng: 21-09-2018
Dự đoán tiềm năng phát triển thành phôi nang của phôi giai đoạn phân chia dựa trên hình ảnh time- lapse và đánh giá tỉ lệ tiêu thụ oxy của phôi - Ngày đăng: 18-09-2018
Microfluidic: thiết bị mới giúp lựa chọn tinh trùng trong ART - Ngày đăng: 09-09-2018
Tỷ lệ sinh sống cộng dồn ở bệnh nhân đáp ứng kém với kích thích buồng trứng - Ngày đăng: 05-09-2018
Chuyển đơn phôi ngày 3 kết hợp nuôi cấy timelapse hay chuyển đơn phôi ngày 5 nuôi cấy thông thường: Lựa chọn nào hiệu quả? - Ngày đăng: 04-09-2018
Sự tương quan giữa phôi collapse và tiềm năng làm tổ - Ngày đăng: 04-09-2018
Ảnh hưởng của trữ lạnh noãn đối với chất lượng phôi: phân tích động học hình thái time-lapse - Ngày đăng: 25-08-2018
Tỉ lệ sinh sống một trẻ và sinh sống nhiều trẻ giữa chuyển đơn phôi và chuyển hai phôi trong các chu kì TTTON với noãn hiến tặng - Ngày đăng: 28-08-2018
Nồng độ acid béo N-3 chuỗi dài trong huyết tương giai đoạn đầu và giữa thai kỳ và nguy cơ sinh non - Ngày đăng: 21-08-2018
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK