Tin tức
on Tuesday 21-08-2018 8:08am
Danh mục: Tin quốc tế
Theo ước tính hiện nay trên toàn cầu, cứ 9 em bé ra đời lại có một trẻ sinh non. Sinh non không những là nguyên nhân gây tử vong sơ sinh hàng đầu mà còn gây những ảnh hưởng lâu dài đến sức khoẻ của trẻ do nguy cơ bệnh lý tim mạch, chuyển hoá, hô hấp. Tỷ lệ biến chứng do sinh non xảy ra cao nhất ở nhóm trẻ được sinh trước 34 tuần. Dù đã có rất nhiều nghiên cứu lớn được thực hiện, nhưng cho đến nay, nguyên nhân sinh non vẫn còn là một câu hỏi khó.
Xuất phát từ việc quan sát thấy trọng lượng lúc sinh và tuổi thai thường lớn ở nhóm cộng đồng ăn cá của quần đảo Faroe, một giả thuyết về vai trò kéo dài thai kỳ và trì hoãn sinh non của acid béo n-3 chuỗi dài được thiết lập. Giả thuyết này lần đầu tiên công bố trên The Lancet năm 1986. Sau đó, rất nhiều nghiên cứu đã được tiến hành nhằm trả lời cho câu hỏi liệu việc tiêu thụ một lượng lớn axit béo n-3 chuỗi dài có khả năng kéo dài thai kỳ hay không. Mặc dù kết quả của các nghiên cứu không nhất quán trong ủng hộ giả thuyết đặt ra, tuy nhiên có ít nhất 1 nghiên cứu mô tả, 5 nghiên cứu can thiệp và vài phân tích gộp trên những nghiên cứu RCT đồng kết luận axit béo n-3 chuỗi dài trong thai kỳ có liên quan đến tác dụng kéo dài thai kỳ.
Tuy nhiên, đến nay, nồng độ tác dụng, mối tương quan giữa mức độ thiếu hụt acid béo ở các thời điểm khác nhau trong thai kỳ và nguy cơ của kết cục bất lợi trên thai kỳ vẫn chưa được giải đáp thoả đáng.
Một nghiên cứu bệnh chứng khảo sát trên những trường hợp sinh non tại Đan Mạch vừa công bố với mục tiêu nhằm xác định mối tương quan giữa nồng độ acid béo trong thai kỳ và nguy cơ sinh non.
Nghiên cứu này thực hiện khảo sát trên 376 trường hợp sinh non trước 34 tuần (loại trừ trường hợp tiền sản giật) và 348 trường hợp thuộc nhóm chứng.
Nồng độ acid eicosapentaenoic cộng với acid docosahexaenoic (EPA + DHA% của tổng số axit béo) huyết tương được đo hai lần trong thai kỳ, lúc thai khoảng 9 tuần và 25 tuần. Tỷ số chênh và khoảng tin cậy 95% (CI) cho các mối liên quan giữa EPA + DHA và nguy cơ sinh non được ước tính bằng hồi quy logistic, điều chỉnh theo độ tuổi, chiều cao, BMI trước khi mang thai, tiền sử sản khoa, hút thuốc và các yếu tố kinh tế xã hội.
Kết quả: Nguy cơ sinh non tăng khi nồng độ EPA + DHA thấp hơn 2%. Phụ nữ ở nhóm nồng độ EDP+DHA thấp nhất (EPA + DHA <1,6%) có nguy cơ sinh non tăng 10,27 lần (95% CI 6,80–15,79, p <0,0001); phụ nữ ở nhóm thứ hai tăng nguy cơ sinh non lên 2,86 (95% CI 1,79–4,59, p <0,0001), khi so sánh với phụ nữ trong ba nhóm EPA + DHA ≥ 1,8%.
Kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ của EPA và DHA huyết tương thấp trong thai kỳ là một yếu tố nguy cơ cao của sinh non.
BS. Lê Tiểu My – Nhóm nghiên cứu sinh non Bệnh viện Mỹ Đức
Nguồn: Olsen, S.F., et al., Plasma Concentrations of Long Chain N-3 Fatty Acids in Early and Mid-Pregnancy and Risk of Early Preterm Birth, EBioMedicine (2018), https://doi.org/10.1016/j.ebiom.2018.07.009
Xuất phát từ việc quan sát thấy trọng lượng lúc sinh và tuổi thai thường lớn ở nhóm cộng đồng ăn cá của quần đảo Faroe, một giả thuyết về vai trò kéo dài thai kỳ và trì hoãn sinh non của acid béo n-3 chuỗi dài được thiết lập. Giả thuyết này lần đầu tiên công bố trên The Lancet năm 1986. Sau đó, rất nhiều nghiên cứu đã được tiến hành nhằm trả lời cho câu hỏi liệu việc tiêu thụ một lượng lớn axit béo n-3 chuỗi dài có khả năng kéo dài thai kỳ hay không. Mặc dù kết quả của các nghiên cứu không nhất quán trong ủng hộ giả thuyết đặt ra, tuy nhiên có ít nhất 1 nghiên cứu mô tả, 5 nghiên cứu can thiệp và vài phân tích gộp trên những nghiên cứu RCT đồng kết luận axit béo n-3 chuỗi dài trong thai kỳ có liên quan đến tác dụng kéo dài thai kỳ.
Tuy nhiên, đến nay, nồng độ tác dụng, mối tương quan giữa mức độ thiếu hụt acid béo ở các thời điểm khác nhau trong thai kỳ và nguy cơ của kết cục bất lợi trên thai kỳ vẫn chưa được giải đáp thoả đáng.
Một nghiên cứu bệnh chứng khảo sát trên những trường hợp sinh non tại Đan Mạch vừa công bố với mục tiêu nhằm xác định mối tương quan giữa nồng độ acid béo trong thai kỳ và nguy cơ sinh non.
Nghiên cứu này thực hiện khảo sát trên 376 trường hợp sinh non trước 34 tuần (loại trừ trường hợp tiền sản giật) và 348 trường hợp thuộc nhóm chứng.
Nồng độ acid eicosapentaenoic cộng với acid docosahexaenoic (EPA + DHA% của tổng số axit béo) huyết tương được đo hai lần trong thai kỳ, lúc thai khoảng 9 tuần và 25 tuần. Tỷ số chênh và khoảng tin cậy 95% (CI) cho các mối liên quan giữa EPA + DHA và nguy cơ sinh non được ước tính bằng hồi quy logistic, điều chỉnh theo độ tuổi, chiều cao, BMI trước khi mang thai, tiền sử sản khoa, hút thuốc và các yếu tố kinh tế xã hội.
Kết quả: Nguy cơ sinh non tăng khi nồng độ EPA + DHA thấp hơn 2%. Phụ nữ ở nhóm nồng độ EDP+DHA thấp nhất (EPA + DHA <1,6%) có nguy cơ sinh non tăng 10,27 lần (95% CI 6,80–15,79, p <0,0001); phụ nữ ở nhóm thứ hai tăng nguy cơ sinh non lên 2,86 (95% CI 1,79–4,59, p <0,0001), khi so sánh với phụ nữ trong ba nhóm EPA + DHA ≥ 1,8%.
Kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ của EPA và DHA huyết tương thấp trong thai kỳ là một yếu tố nguy cơ cao của sinh non.
BS. Lê Tiểu My – Nhóm nghiên cứu sinh non Bệnh viện Mỹ Đức
Nguồn: Olsen, S.F., et al., Plasma Concentrations of Long Chain N-3 Fatty Acids in Early and Mid-Pregnancy and Risk of Early Preterm Birth, EBioMedicine (2018), https://doi.org/10.1016/j.ebiom.2018.07.009
Các tin khác cùng chuyên mục:
Thử nghiệm lâm sàng so sánh hiệu quả giữa dienogest với triptorelin acetate trong điều trị adenomyosis ở phụ nữ tiền mãn kinh - Ngày đăng: 17-08-2018
Cập nhật mới về liệu pháp corticoid trước sinh trong việc giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong liên quan đường hô hấp cho trẻ sinh non - Ngày đăng: 16-08-2018
Mối tương quan giữa DNA tế bào tự do trong khoang phôi và hình thái phôi nang - Ngày đăng: 15-08-2018
Khởi phát chuyển dạ hay chờ đợi ở thai phụ con so nguy cơ thấp - Ngày đăng: 15-08-2018
Quần lót, chức năng tinh hoàn và số lượng tinh trùng - Ngày đăng: 15-08-2018
Hiệu quả của oxy so với không khí phòng trong hồi sức thai nhi còn trong bụng mẹ - Ngày đăng: 15-08-2018
Ước đoán độ trưởng thành phổi thai nhi bằng cộng hưởng từ phổ - Ngày đăng: 13-08-2018
Thai kỳ xin noãn và những biến chứng trong thai kỳ xin noãn - Ngày đăng: 10-08-2018
Mối tương quan giữa BMI và kết quả thai sau chuyển đơn phôi - Ngày đăng: 08-08-2018
Trữ lạnh tinh trùng không sử dụng chất bảo quản lạnh: một cách tiếp cận mới - Ngày đăng: 08-08-2018
Tầm soát lệch bội bằng DNA tế bào tự do từ môi trường nuôi cấy phôi - Ngày đăng: 02-08-2018
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK