Một nghiên cứu tổng quan y văn mới và phân tích meta cho thấy việc phẫu thuật các khối u lạc nội mạc tử cung trước khi làm thụ tinh ống nghiệm không có hiệu quả có ý nghĩa thống kê trên đáp ứng với kích thích buồng trứng và tỉ lệ có thai.
Theo các nhà nghiên cứu thuộc các trung tâm ở Lancaster, Preston và Manchester, Anh, ước tính có khoảng 10-25% bệnh nhân làm thụ tinh trong ống nghiệm bị lạc nội mạc tử cung. Trong số này, 17-44% có khối u lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng. Có nhiều lo ngại rằng việc phẫu thuật u lạc nội mạc tử cung trong nhiều trường hợp có thể gây tổn thương mô buồng trứng lành còn lại.
Để xem xét vấn đề này, các nhà nghiên cứu đã xem lại các bài báo cáo và xác định được 92 nghiên cứu nổi bật công bố từ tháng 1 năm 1985 đến tháng 11 năm 2007. Họ đã loại trừ các nghiên cứu trong đó bệnh nhân được điều trị nội khoa lạc nội mạc tử cung trước hoặc sau khi phẫu thuật, hoặc trong đó nhóm nghiên cứu được điều trị bằng cách hút dịch nang lạc nội mạc hoặc cắt bỏ buồng trứng.
Còn lại 20 nghiên cứu hồi cứu hoặc tiền cứu có đối chứng đánh giá hiệu quả của phẫu thuật u lạc nội mạc tử cung (bằng cách bóc u lạc nội mạc) trên kết quả thụ tinh trong ống nghiệm và đáp ứng với kích thích buồng trứng. Hầu hết là nghiên cứu hồi cứu đối chứng từng trường hợp. Cũng có 2 nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu, 2 nghiên cứu đoàn hệ tiền cứu và 1 nghiên cứu thử nghiệm ngẫu nhiên có chứng.
Các nhà nghiên cứu đã tiến hành phân tích meta bằng cách sử dụng các dữ liệu từ 5 nghiên cứu so sánh điều trị phẫu thuật với không điều trị. Họ không tìm thấy sự khác biệt nào có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm được phẫu thuật và không được phẫu thuật u lạc nội mạc tử cung về các mặt:
- Tỉ lệ có thai trên mỗi chu kỳ điều trị (tỉ số chênh là 0,92, khoảng tin cậy 95% là 0,61-1,38, đối với nhóm phẫu thuật so với nhóm chứng).
- Tỉ lệ thai lâm sàng trên mỗi chu kỳ điều trị (tỉ số chênh 1,34, khoảng tin cậy 95% là 0,82-2,20).
- Số phôi có để chuyển (chênh lệch trung bình giữa nhóm có phẫu thuật so với nhóm không phẫu thuật là 0,57, khoảng tin cậy 95% là -0,27 đến 1,41).
- Số trứng chọc hút được (chênh lệch trung bình -1,53, khoảng tin cậy 95% là -3,23 đến 0,17).
- Số ống gonadotropin sử dụng để kích thích buồng trứng (chênh lệch trung bình 1,55, khoảng tin cậy 95% là -9,21 đến 12,31).
- Nồng độ estradiol đỉnh (chênh lệch trung bình -46,05, khoảng tin cậy 95% là -535,14 đến 443,04).
Bàn luận về các kết quả của mình, các nhà nghiên cứu cho biết các dữ liệu trên không giúp giải quyết vấn đề tranh cãi xung quanh hiệu quả của điều trị phẫu thuật. Họ kết luận rẳng “cách điều trị tiêu chuẩn u lạc nội mạc tử cung trên những phụ nữ vô sinh trước khi thụ tinh trong ống nghiệm vẫn còn chưa ngã ngũ do thiếu các chứng cứ để xác định tính ưu việt của phương pháp điều trị nào tốt hơn phương pháp nào. Cho đến lúc này, việc xử trí u lạc nội mạc tử cung trước khi làm thụ tinh trong ống nghiệm nên mang tính cá nhân hóa. Các lợi ích và bất lợi của các phương pháp điều trị hiện có nên được bàn luận đầy đủ với bệnh nhân.
Nguồn: Fertility and Sterility 2008
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...