Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Tuesday 07-10-2025 11:21pm
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

Nguyễn Thị Huyên, NHS IVFMD SIH, Bệnh viện Phụ sản Quốc tế Sài Gòn
 
Nhiễm virus viêm gan B (Hepatitis B virus - HBV) là một vấn đề sức khỏe cộng đồng toàn cầu quan trọng, và tổ chức y tế thế giới (World Health Organization - WHO) đã công bố chiến lược toàn cầu nhằm loại trừ viêm gan vào năm 2030. Tuy nhiên, quy định về quản lý (Assisted Reproductive Technology - ART) cho bệnh nhân HBV khác nhau tùy theo quốc gia. Hướng dẫn chi tiết về quy trình ART dành  cho bệnh nhân nhiễm HBV vẫn còn thiếu.
Về ảnh hưởng của nhiễm HBV đối với các cặp vợ chồng, một số các nghiên cứu báo cáo rằng các cặp vợ chồng nhiễm HBV có tỷ lệ làm tổ và thai thấp hơn và tỷ lệ sẩy thai sớm tăng lên, trong khi các nghiên cứu khác cho thấy  nhiễm HBV không ảnh hưởng đáng kể đến kết quả thai ở các cặp vợ chồng đang điều trị ART.
Sự phát triển nhanh chóng của các phương pháp bảo quản phôi đông lạnh cho phép chuyển phôi đông lạnh (frozen embryo transfer - FET) trở thành một giải pháp thay thế hiệu quả cho phương pháp chuyển phôi tươi thông thường trong các phương pháp điều trị ART. Tuy nhiên, nghiên cứu điều tra tác động của nhiễm HBV đối với sự  phát triển phôi và kết quả thai kỳ lâm sàng trong chu kỳ FET vẫn còn hạn chế.
Vì vậy để trả lời cho câu hỏi liệu nhiễm virus viêm gan B (HBV) ở nam hay nữ có ảnh hưởng đến chất lượng noãn và phôi, kết quả thai kỳ và kết quả sơ sinh ở các cặp vợ  chồng vô sinh đang điều trị ART không, một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu đã được thực hiện tại Khoa Hỗ Trợ Sinh Sản Bệnh Viện Nhân Dân số 9 Thượng Hải, Trung Quốc, trên các cặp vợ chồng vô sinh trải qua lần chuyển phôi đông lạnh đầu tiên sau lần kích thích buồng trứng đầu tiên bằng chiến lược trữ đông toàn bộ từ năm 2011 đến năm 2023.
Tất cả bệnh nhân thỏa điều kiện chia thành 3 nhóm theo tình trạng nhiễm HBV của vợ hoặc chồng: nhóm 1 vợ dương tính HBV, chồng âm tính HBV; nhóm 2 vợ âm tính HBV, chồng dương tính HBV; nhóm 3 đối chứng (cả vợ và chồng đều âm tính HBV). Trong nghiên cứu này có tổng cộng 24.836 cặp vợ chồng trong đó 133 cặp vợ chồng nhóm 1, 1.471 cặp vợ chồng nhóm 2, và 23.232 cặp vợ chồng nhóm 3.
Sau khi dùng phương pháp Propensity Score Matching (PSM) để điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu có thể gây ảnh hưởng đến các nhóm nghiên cứu, có 117 cặp ở nhóm 1 so với 459 cặp ở nhóm 2, và 1364 cặp nhóm 2 so với 4279 cặp nhóm 3.
Trước khi bắt cặp, đã có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm 1 và nhóm 3 về các yếu tố: tuổi vợ, tuổi chồng, chỉ số (Body Mass Index - BMI), tình trạng suy giảm dự trữ buồng trứng, và phương pháp chuẩn bị nội mạc tử cung. Nhóm 2 và nhóm 3 cũng khác biệt về tuổi mẹ, tuổi chồng, chỉ số BMI, việc người chồng tiếp xúc với thuốc lá, loại vô sinh và tiền sử sinh sản. Sau khi áp dụng PSM, không sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm về đặc điểm nhân khẩu học cơ bản trên.
Kết quả cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số lượng noãn thu được, noãn MII, noãn thụ tinh 1-2-3 PN, noãn thụ  tinh 2PN, tỷ lệ phôi phân chia, phôi hữu dụng ngày 3, phôi chất lượng tốt và phôi nang hữu dụng giữa nhóm 1 so với nhóm 3. Tương tự cũng không có sự khác biệt về các kết quả trên giữa nhóm 2 và nhóm 3. Kết quả hồi quy tuyến tính đa biến cũng chỉ ra rằng chất lượng noãn và sự phát triển của  phôi không liên quan đến tình trạng nhiễm HBV ở vợ hoặc chồng.
Về kết quả thai lâm sàng và kết cục sơ sinh sau chuyển phôi trữ: tỷ lệ thai lâm sàng là 41,03% ở nhóm 1, 50,51% ở nhóm 2, và  ≤50% ở nhóm đối chứng 3 (P = 0,087 và 0,613, tương ứng). Các nhóm so sánh cũng tương tự  với nhóm đối chứng về tỷ lệ thai, sẩy thai sinh hóa, sẩy thai lâm sàng và sinh con  sống. Không có sự khác biệt đáng kể nào được tìm thấy giữa các nhóm so sánh và nhóm đối  chứng về kết cục sơ sinh ở những trẻ đơn thai, bao gồm sinh non, nhẹ cân (Low birth weight - LBW), nặng cân (Heavy birth weight - HBW), bé so với tuổi thai (Small for Gestational Age - SGA) và lớn so với tuổi thai (Large for Gestational Age - LGA).  Phân tích hồi quy logistic cho thấy tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ sinh con có xu  hướng giảm ở các cặp vợ chồng nhiễm HBV là nữ, mặc dù xu hướng này không có ý nghĩa  thống kê (tỷ lệ thai lâm sàng: aOR, 0,69 [95% KTC: 0,45–1,05]; sinh sống: 0,64 [0,41– 1,00]). Tuy nhiên, xu hướng trên không được quan sát thấy ở các cặp vợ chồng nhiễm HBV là nam (tỷ lệ thai lâm sàng: 1,04 [0,92–1,18]; sinh sống: 1,03 [0,90–1,16]). Nhiễm  HBV ở vợ và nhiễm HBV ở chồng không liên quan đến tăng nguy cơ gây ra hậu quả bất lợi cho trẻ sơ sinh.
Phân tích độ nhạy liên quan đến chất lượng noãn, sự phát triển phôi và kết quả lâm sàng đã được thực hiện ở những phụ nữ chỉ bị vô sinh do ống dẫn trứng. Tất cả kết quả đều cho thấy không có mối liên hệ đáng kể nào được tìm thấy trong phân tích giữa nhiễm HBV ở nam hoặc nữ với chất lượng noãn và phôi hoặc kết quả lâm sàng sau chuyển phôi.
Đây là nghiên cứu đầu tiên tìm hiểu ảnh hưởng của nhiễm HBV ở vợ hoặc chồng lên chất lượng noãn và phôi, cũng như kết quả thai và trẻ sơ sinh trong các chu kỳ FET. Kết quả cho thấy nhiễm HBV không gây tác động tiêu cực đến sự phát triển của noãn và phôi cũng như kết cục sơ sinh. Những phát hiện này cho thấy phụ nữ hoặc nam giới vô sinh do nhiễm HBV không nên lo ngại về tác dụng phụ và bị hạn chế tiếp cận các phương pháp điều trị ART. Thông tin này rất quan trọng trong việc tư vấn cho phụ nữ hoặc nam giới có tình trạng dương tính với HBV đang điều trị  ART.
Tuy nhiên, nghiên cứu có một số hạn chế như: đây là nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu tại một trung tâm duy nhất, do đó cần tiến hành các nghiên cứu đa trung tâm với quy mô lớn để xác minh những phát hiện này. Ngoài ra, trong nghiên cứu này các cặp đôi bị nhiễm được định nghĩa là 1 trong 2 người bị nhiễm HBV, trường hợp cả 2 đều bị nhiễm bị loại khỏi nghiên cứu do cỡ mẫu rất nhỏ. Cuối cùng, nghiên cứu không thu thập các dữ liệu chi tiết về xét nghiệm DNA HBV, thời gian nhiễm HBV, chức năng gan và quá trình điều trị HBV, do đó không phân tầng mối liên quan theo các mức độ nghiêm trọng khác nhau.

TLTK: Lin J, Chen Q, He Y, Yin M, Zhu Q. Association of hepatitis B virus infection with oocyte quality, embryo development, and ART outcomes in couples with a freeze-all strategy at a single center. Hum Reprod. 2025 Jul 16:deaf131. doi: 10.1093/humrep/deaf131. Epub ahead of print. PMID: 40671250.


Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

New World Saigon Hotel, thứ bảy ngày 17 tháng 01 năm 2026

Năm 2020

Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TP. Hồ Chí Minh (HOSREM) sẽ ...

Năm 2020

Khách sạn Equatorial, chủ nhật ngày 23 . 11 . 2025

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Ấn phẩm CẬP NHẬT KIẾN THỨC VỀ QUẢN LÝ SỨC KHỎE TUỔI MÃN ...

Y học sinh sản được phát ngày ngày 21 . 9 . 2025 và gởi đến ...

Cẩm nang Hội chứng buồng trứng đa nang được phát hành online ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK