CNHS.Lê Thị Mỹ Trinh – IVFMD Tân Bình
Giới thiệu
Hội chứng buồng trứng đa nang (polycystic ovary syndrome - PCOS) là nguyên nhân phổ biến gây vô sinh nữ, với tỷ lệ hiện mắc toàn cầu từ 4% đến 21%. Tại Trung Quốc, tỷ lệ này tăng từ 5,6% năm 2013 lên 7,8% năm 2022. PCOS thường gặp ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản và chiếm tỷ lệ đáng kể trong nhóm thực hiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (assisted reproductive technology - ART). Các bất thường nội tiết và chuyển hóa ở bệnh nhân PCOS có thể ảnh hưởng đến kết quả ART. So với phụ nữ cùng tuổi không mắc PCOS, bệnh nhân PCOS dễ thừa cân hoặc béo phì hơn, và các nghiên cứu cho thấy họ có tỷ lệ sẩy thai cao hơn, làm giảm tỷ lệ sinh sống.
Chỉ số khối cơ thể (body mass index - BMI) được xem là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kết quả ART, nhưng cách phân loại BMI còn thiếu nhất quán. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã điều chỉnh ngưỡng cho khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong đó thừa cân được định nghĩa là BMI ≥ 23 kg/m² và béo phì là BMI ≥ 25 kg/m². Nhóm công tác về béo phì tại Trung Quốc sử dụng ngưỡng phân loại khác: gầy (<18,5), bình thường (18,5–23,9), thừa cân (24–27,9) và béo phì (≥28 kg/m²). Những tiêu chuẩn này phản ánh tốt hơn nguy cơ rối loạn chuyển hóa ở bệnh nhân PCOS châu Á.
Các rối loạn chuyển hóa như kháng insulin được ghi nhận không chỉ ở bệnh nhân PCOS thừa cân/béo phì mà còn ở nhóm có BMI bình thường hoặc thấp. Ngoài ra, người châu Á thường có BMI thấp hơn nhưng tỷ lệ mỡ cơ thể cao hơn, kéo theo nguy cơ mắc bệnh tim mạch và đái tháo đường. Các nghiên cứu trước nhấn mạnh tác động bất lợi của béo phì đến kết quả IVF, bao gồm giảm tỷ lệ sinh sống và tăng nguy cơ sẩy thai, nhưng còn thiếu bằng chứng ở nhóm bệnh nhân PCOS không béo phì.
Do vậy, việc xác định ngưỡng BMI tối ưu có vai trò quan trọng trong quản lý điều trị và ra quyết định lâm sàng. Nghiên cứu này nhằm so sánh kết quả sinh sản của bệnh nhân PCOS với các mức BMI khác nhau sau IVF–ET, bao gồm tỷ lệ có thai lâm sàng, sẩy thai sớm, thai diễn tiến và sinh sống, từ đó đề xuất giá trị BMI phù hợp cho giai đoạn trước mang thai.
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu này là một đoàn hệ hồi cứu. Dữ liệu được thu thập từ các bệnh nhân mắc hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS), được điều trị bằng thụ tinh trong ống nghiệm cổ điển hoặc tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (IVF/ICSI), và trải qua kích thích buồng trứng có kiểm soát với phác đồ đối kháng tại Trung tâm Hỗ trợ Sinh sản, Bệnh viện Sức khỏe Bà mẹ và Trẻ em Quảng Đông trong giai đoạn từ tháng 8/2014 đến tháng 7/2023.
Tiêu chuẩn nhận:
-
Được chẩn đoán PCOS.
-
Được điều trị bằng IVF/ICSI.
Tiêu chuẩn loại:
-
Tiền sử phẫu thuật buồng trứng.
-
Tuổi trên 40.
-
Sẩy thai liên tiếp.
-
Dị tật bẩm sinh hoặc mắc phải của đường sinh sản.
-
Tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh tuyến giáp chưa kiểm soát.
-
Các bệnh lý toàn thân nghiêm trọng khác.
-
Bệnh nhân không thực hiện chuyển phôi tươi vì bất kỳ lý do nào.
Tất cả bệnh nhân được kích thích buồng trứng có kiểm soát bằng phác đồ đối kháng, bắt đầu gonadotropin (75–250 IU/ngày) vào ngày 2–4 chu kỳ kinh, liều điều chỉnh theo tuổi, dự trữ buồng trứng, BMI và tiền sử đáp ứng thuốc. Thuốc đối kháng được dùng theo phác đồ cố định (từ ngày 5) hoặc linh hoạt (khi nang ≥12 mm) cho đến ngày tiêm HCG. Khi ≥2 nang ≥18 mm hoặc ≥3 nang ≥17 mm, trưởng thành noãn được kích hoạt bằng HCG đơn thuần hoặc kết hợp triptorelin. Chọc hút noãn sau 36 giờ, thụ tinh bằng IVF/ICSI, phôi được đánh giá và chuyển ≤2 phôi phân chia hoặc 1 phôi nang chất lượng tốt.
Các kết cục sinh sản chính được đánh giá gồm: thai lâm sàng, sảy thai sớm, thai diễn tiến và sinh sống.
Kết quả
Đặc điểm nền:
Nghiên cứu phân tích 649 bệnh nhân PCOS. Trong đó, 6,8% có BMI thấp, 57,9% bình thường, 25,7% thừa cân và 9,6% béo phì. Giữa các nhóm BMI có sự khác biệt có ý nghĩa về vòng eo, tỷ lệ eo-hông, cân nặng, Mô hình đánh giá kháng Insulin (HOMA-IR), các chỉ số chức năng buồng trứng (AMH, bFSH, bLH, bE2, bP4) và các thông số kích thích buồng trứng (liều khởi đầu và tổng liều gonadotropin, số noãn thu được) (P<0,05). Chiều cao, AFC, prolactin và testosterone không khác biệt đáng kể.
BMI và kết cục sinh sản
Phân tích hồi quy logistic đa biến cho thấy BMI có liên quan đáng kể đến các kết cục sinh sản. So với nhóm BMI bình thường, phụ nữ có BMI thấp ghi nhận tỷ lệ sinh sống thấp hơn rõ rệt (P=0,021; OR=0,47; 95% KTC, 0,24–0,89), tỷ lệ thai lâm sàng thấp hơn (P=0,025; OR=0,49; 95% KTC, 0,26–0,91) và tỷ lệ thai tiến triển cũng thấp hơn (P=0,008; OR=0,41; 95% KTC, 0,22–0,79). Ở Mô hình 4, sau khi hiệu chỉnh các yếu tố gây nhiễu (tuổi, AMH, AFC, HOMA, và các chỉ số nội tiết cơ bản), nhóm BMI thấp có tỷ lệ sảy thai sớm cao hơn đáng kể so với nhóm BMI bình thường (P=0,040; OR=4,33; 95% KTC, 1,07–17,50). Ngoài ra, mặc dù tỷ lệ sinh sống ở nhóm béo phì (46,8%) thấp hơn so với nhóm BMI bình thường (55,1%), sự khác biệt không đạt ý nghĩa thống kê.
Điểm gãy trong mối quan hệ giữa BMI và tỷ lệ sinh sống
Phân tích hồi quy phi tuyến cho thấy mối quan hệ không tuyến tính giữa BMI và tỷ lệ sinh sống, với điểm gãy khoảng 22 kg/m². Bên trái điểm gãy, tỷ lệ sinh sống tăng đáng kể khi BMI tăng (P=0,018; OR=1,29; 95% KTC, 1,05–1,60), nghĩa là cứ tăng 1 kg/m² BMI, tỷ lệ sinh sống tăng 29%. Ngược lại, bên phải điểm gãy, BMI không còn liên quan có ý nghĩa thống kê đến tỷ lệ sinh sống (P=0,379; OR=0,96; 95% KTC, 0,87–1,06). Kết quả này gợi ý rằng tỷ lệ sinh sống đạt cao nhất ở BMI xấp xỉ 22 kg/m², đồng thời nhấn mạnh BMI thấp có thể bất lợi cho khả năng sinh sản.
Phân tích phân nhóm và phân tầng
Có sự tương tác đáng kể giữa tuổi và BMI đối với tỷ lệ sinh sống (P=0,011). Ở bệnh nhân <32 tuổi, điểm gãy xuất hiện tại BMI 25,5 kg/m². Bên trái điểm này, tỷ lệ sinh sống tăng đáng kể theo BMI (P=0,016; OR=1,16; 95% KTC, 1,03–1,30), trong khi bên phải không còn ý nghĩa thống kê (P=0,581; OR=0,96; 95% KTC, 0,70–1,22). Ở bệnh nhân ≥32 tuổi, điểm gãy là 24 kg/m². Bên trái điểm này, không có mối liên quan đáng kể (P=0,498; OR=1,12; 95% KTC, 0,80–1,57), nhưng bên phải, tỷ lệ sinh sống giảm rõ rệt khi BMI tăng (P=0,020; OR=0,71; 95% KTC, 0,53–0,95). Xu hướng ở nhóm <32 tuổi tương tự dân số chung, trong khi nhóm ≥32 tuổi cho kết quả khác biệt. Không phát hiện tương tác đáng kể giữa BMI và AMH hoặc LH/FSH có liên quan đến tỷ lệ sinh sống.
Kết luận
Nghiên cứu này lần đầu tiên đề xuất ngưỡng BMI thấp hơn (22 kg/m²) cho quản lý cân nặng ở bệnh nhân PCOS người Trung Quốc, nhấn mạnh cần xem xét rủi ro liên quan đến cân nặng ở cả hai đầu phổ BMI. Cụ thể, bệnh nhân trẻ có BMI <22 kg/m² cần được đánh giá dinh dưỡng và khuyến nghị tăng cân cá thể hóa, trong khi ở phụ nữ ≥32 tuổi và béo phì, việc tối ưu BMI trước thụ thai là cần thiết. Kết quả cho thấy BMI thấp liên quan đến kết cục sinh sản bất lợi, khẳng định tầm quan trọng của việc nhận diện BMI thấp như một yếu tố nguy cơ trong lập kế hoạch sinh sản, đồng thời cung cấp góc nhìn lâm sàng mới cho quản lý cân nặng và chiến lược hỗ trợ sinh sản ở bệnh nhân PCOS.
Tài liệu tham khảo: Su N, Wang L, Zhou R, Liao Y, Huang J, Huang C, Yao Y, Qi Q, Huang L, Zhang X and Liu F (2025) Low body mass index adversely affects the live birth rate following fresh embryo transfer in Chinese women with polycystic ovary syndrome: a pilot study. Front. Endocrinol. 16:1624389. doi: 10.3389/fendo.2025.1624389










New World Saigon Hotel, thứ bảy ngày 17 tháng 01 năm 2026
Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TP. Hồ Chí Minh (HOSREM) sẽ ...
Khách sạn Equatorial, chủ nhật ngày 23 . 11 . 2025

Ấn phẩm CẬP NHẬT KIẾN THỨC VỀ QUẢN LÝ SỨC KHỎE TUỔI MÃN ...

Y học sinh sản được phát ngày ngày 21 . 9 . 2025 và gởi đến ...

Cẩm nang Hội chứng buồng trứng đa nang được phát hành online ...