CNSH. Lê Thị Quỳnh – IVFMD SIH - Bệnh viện Phụ sản Quốc tế Sài Gòn
Tổng quan
Khoảng 60% bệnh nhân ung thư trong độ tuổi sinh sản (15-44 tuổi) có mong muốn làm cha mẹ trong tương lai. Mặc dù các bằng chứng hiện có ủng hộ sự an toàn của việc mang thai sau khi điều trị ung thư đối với cả mẹ và con, nhưng nhiều liệu pháp ung thư – bao gồm hóa trị, xạ trị và phẫu thuật phụ khoa – có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng sinh sản sau này.
Từ năm 2006, các hướng dẫn quốc gia đã khuyến nghị bệnh nhân trong độ tuổi sinh sản nên được tư vấn về các kỹ thuật bảo tồn khả năng sinh sản (Fertility Preservation – FP) trước khi bắt đầu các liệu pháp gây độc cho tuyến sinh dục. Đối với bệnh nhân sau dậy thì, việc bảo quản phôi hoặc noãn đông lạnh được khuyến nghị bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (In Vitro Fertilization - IVF).
Tuy nhiên, việc lựa chọn IVF để bảo tồn khả năng sinh sản không đảm bảo thành công trong tương lai. Tỷ lệ sinh con sống trên mỗi chu kỳ chọc hút noãn thành công được ghi nhận khoảng 54% đối với phụ nữ dưới 35 tuổi, nhưng giảm mạnh xuống chỉ còn 10% đối với phụ nữ trên 40 tuổi.
Mặc dù nhu cầu về FP là rõ ràng, vẫn còn thiếu bằng chứng để bệnh nhân và bác sĩ lâm sàng đưa ra quyết định sáng suốt. Thời điểm thực hiện các thủ thuật là một yếu tố rất quan trọng. IVF được tiến hành trước khi điều trị ung thư có thể mang lại kết quả khả quan hơn so với các thủ thuật thực hiện sau đó. Thậm chí, có những lo ngại rằng những thay đổi bệnh lý do ung thư có thể tự nó ảnh hưởng xấu đến thành công của IVF, ngay cả khi noãn đã được thu thập trước khi điều trị.
Để cung cấp thêm nhiều bằng chứng lâm sàng trong bối cảnh điều trị ung thư, nghiên cứu này đã sử dụng dữ liệu chi tiết từ cơ sở dữ liệu IVF quốc gia. Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá kết quả chọc hút noãn, có thai và sinh con sống ở những phụ nữ mắc ung thư so với một nhóm đối chứng gồm những phụ nữ trong các cặp vợ chồng chỉ có chỉ định IVF do yếu tố nam giới.
Vật liệu và phương pháp
Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu từ hệ thống báo cáo kết quả phòng khám SART CORS (2004-2018), được liên kết với sổ đăng ký ung thư và giấy khai sinh tại 9 tiểu bang của Hoa Kỳ. Nhóm nghiên cứu chính là nhóm có chỉ định IVF, được phân loại thành FP (chọc hút noãn ≤ 90 ngày sau chẩn đoán ung thư) hoặc IVF sau điều trị ung thư (chọc hút noãn > 90 ngày sau chẩn đoán). Nhóm đối chứng là phụ nữ không mắc ung thư, có chỉ định IVF chỉ do yếu tố nam giới.
Các kết quả đo lường bao gồm số lượng noãn thu được, tỷ lệ thai lâm sàng, và sinh con sống (tuổi thai ≥ 22 tuần, cân nặng ≥ 300 gram). Phân tích thống kê được thực hiện bằng các mô hình đa biến, bao gồm hồi quy tuyến tính (để phân tích số lượng noãn) và hồi quy Cox (để phân tích tỷ lệ thai lâm sàng), điều chỉnh các biến nhiễu như tiểu bang, chủng tộc, tuổi và năm thu thập. Mô hình hồi quy logarit đa biến được sử dụng để ước tính tỷ lệ nguy cơ cho sinh con sống. Các phân tích độ nhạy bổ sung được thực hiện để điều chỉnh các yếu tố như liều FSH, AMH và BMI, nhằm đảm bảo tính chính xác của mối liên hệ giữa chỉ định IVF và kết quả lâm sàng.
Kết quả
Dữ liệu của nghiên cứu, bao gồm 5.420 phụ nữ mắc ung thư (54% thực hiện FP, 46% thực hiện IVF sau điều trị) so với 81.370 phụ nữ đối chứng, cho thấy kết quả khả quan nhất khi FP được thực hiện kịp thời.
Số lượng noãn thu được ở nhóm FP (16,8 noãn) tương đương với nhóm đối chứng. Ngược lại, nhóm IVF sau điều trị ung thư có số lượng noãn giảm đáng kể (giảm gần 3 noãn), với mức giảm sâu nhất ở các nhóm ung thư máu và phụ khoa.
Về tỷ lệ thai lâm sàng, sau khi điều chỉnh các yếu tố liên quan, phụ nữ thuộc nhóm FP không có sự khác biệt đáng kể so với nhóm đối chứng; trong khi đó, nhóm IVF sau điều trị ung thư có tỷ lệ thai thấp hơn đáng kể (HR = 0,70). Quan trọng nhất, đối với những phụ nữ đã có thai lâm sàng, khả năng sinh con sống của cả hai nhóm ung thư (FP và IVF sau điều trị) đều tương đương với nhóm đối chứng.
Kết luận
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu IVF quốc gia liên kết với hồ sơ ung thư, thực hiện trên hơn 5.000 phụ nữ mắc ung thư đã so sánh kết quả IVF theo thời điểm can thiệp. Kết quả cho thấy: 1) Số lượng noãn thu được ở nhóm FP (trước điều trị ung thư) là tương đương với nhóm đối chứng (vô sinh do yếu tố nam). 2) Ngược lại, nhóm IVF sau điều trị ung thư có số lượng noãn thu được và tỷ lệ thụ thai thấp hơn đáng kể theo số lần chuyển phôi. 3) Khả năng sinh con sống sau khi đã có thai của cả hai nhóm ung thư đều tương đương với nhóm đối chứng.
Những phát hiện này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cung cấp thông tin kịp thời để hỗ trợ quyết định về FP trước khi điều trị ung thư, vì việc can thiệp sớm giúp đạt được kết quả IVF tương đương với phụ nữ không mắc ung thư. Ngược lại, những người cân nhắc IVF sau điều trị cần được tư vấn về khả năng có thai thấp hơn do các chu kỳ chuyển phôi, đặc biệt là ở nhóm ung thư máu và phụ khoa. Mặc dù có hạn chế về thông tin chi tiết phác đồ điều trị ung thư, nghiên cứu này đã cung cấp bằng chứng chất lượng cao cho việc tư vấn trước và sau điều trị ung thư.
Từ khoá: bảo tồn khả năng sinh sản, IVF, ung thư, tư vấn.
Tài liệu tham khảo: Anderson, et al (2025). Fertility preservation and in vitro fertilization (IVF) success rates after cancer. JNCI cancer spectrum, 9(4), pkaf057. https://doi.org/10.1093/jncics/pkaf057.










New World Saigon Hotel, thứ bảy ngày 17 tháng 01 năm 2026
Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TP. Hồ Chí Minh (HOSREM) sẽ ...
Khách sạn Equatorial, chủ nhật ngày 23 . 11 . 2025

Ấn phẩm CẬP NHẬT KIẾN THỨC VỀ QUẢN LÝ SỨC KHỎE TUỔI MÃN ...

Y học sinh sản được phát ngày ngày 21 . 9 . 2025 và gởi đến ...

Cẩm nang Hội chứng buồng trứng đa nang được phát hành online ...