Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Wednesday 23-07-2025 12:25am
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

“ThS. Dương Ngô Hoàng Anh - IVFMD Phú Nhuận, Bệnh viện Mỹ Đức Phú Nhuận”

U buồng trứng giáp biên ác tính (borderline ovarian tumors – BOT) là một bệnh lý thường gặp ở phụ nữ dưới 40 tuổi. Với tần suất 15 – 20% trường hợp u biểu mô buồng trứng, và có tỷ lệ mắc hàng năm là 1,8 – 5,5 trên 100.000 phụ nữ, bệnh nhân BOT trẻ và còn cần khả năng sinh sản, nên được phẫu thuật (fertility-sparing surgery – FSS) để bảo tồn tử cung và ít nhất một buồng trứng. Các phương pháp FSS có thể kể đến như cắt bỏ bàng quang, cắt bỏ một bên buồng trứng hoặc cắt bỏ một bên vòi trứng. Tuy nhiên, biến chứng hậu phẫu như dính vùng chậu và giảm dự trữ buồng trứng có thể ảnh hưởng đến khả năng mang thai tự nhiên, nên một số bệnh nhân BOT cần điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Nghiên cứu về kết quả IVF ở những bệnh nhân BOT sau FSS còn hạn chế, chủ yếu là các báo cáo ca bệnh. Bên cạnh đó, tác động của thuốc kích thích buồng trứng, cũng như các phương pháp điều trị IVF đối với nguy cơ tái phát ung thư vẫn là một vấn đề được quan tâm. Do đó, mục đích của nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả IVF, tập trung vào kết quả sinh sản và nguy cơ tái phát ung thư ở những bệnh nhân bị BOT sau FSS.
Đây là nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu được thực hiện từ tháng 5 năm 2010 đến tháng 5 năm 2023. Có 68 bệnh nhân BOT có tiền sử FSS trong chu kỳ điều trị IVF/ICSI đầu tiên, trong đó 3 bệnh nhân hóa trị bị loại khỏi nghiên cứu. Sau chọn lọc, nhóm BOT có tổng cộng 65 bệnh nhân. Nhóm đối chứng bao gồm những bệnh nhân không có BOT, khối u buồng trứng khác hoặc tiền sử ung thư khi điều trị chu kỳ IVF/ICSI đầu tiên. Dựa vào sự tương hợp giữa các yếu tố: độ tuổi, BMI, phương pháp thụ tinh nhân tạo, ngày IVF/ICSI đầu tiên, phác đồ kích thích buồng trứng và số lượng nang noãn thứ cấp, 181 bệnh nhân đối chứng được ghép cặp thành công với 61 bệnh nhân BOT với tỉ lệ ghép cặp 3 : 1.
Kết cục chính của nghiên cứu là tỷ lệ trẻ sinh sống từ chu kỳ IVF/ICSI đầu tiên, bao gồm cả chu kỳ chuyển phôi tươi (ET) và chuyển phôi trữ (FET). Kết cục phụ được phân tích là các thông số kích thích buồng trứng, thông số thai kỳ, tỷ lệ thai cộng dồn, thông số sơ sinh và các yếu tố nguy cơ tái phát khối u. Các yếu tố gồm giai đoạn BOT, loại bệnh lý, mức độ phẫu thuật buồng trứng trong FSS, khoảng thời gian từ phẫu thuật đến khi điều trị IVF, số chu kỳ kích thích và mức estradiol (E2) đỉnh.
Độ tuổi trung bình của bệnh nhân BOT là 31 tuổi, với khoảng thời gian trung bình giữa phẫu thuật đến điều trị IVF là 14,5 tháng. Thời gian theo dõi từ lần IVF/ICSI đầu tiên đến tháng 5 năm 2023 là khoảng 64 tháng. Nhóm BOT phổ biến nhất là BOT thanh dịch (67,7%), với 84,6% bệnh nhân biểu hiện ở giai đoạn I. Trong đó, 53,8% trường hợp bệnh nhân tổn thương một bên buồng trứng, 46,2% trường hợp còn lại tổn thương cả hai buồng trứng. Về phương pháp FSS, 24,6% bệnh nhân cắt bỏ một bên bàng quang, 13,8% cắt bỏ hai bên bàng quang và 29,2% cắt bỏ một bên buồng trứng.
Không có sự khác biệt đáng kể về tuổi, BMI, số nang thứ cấp, phương pháp thụ tinh và phác đồ kích thích buồng trứng ban đầu giữa nhóm BOT và nhóm đối chứng. Kết quả chỉ ra rằng kết quả IVF và thai kỳ ở bệnh nhân mắc BOT tương đương với kết quả ở bệnh nhân không mắc BOT. Cụ thể, giữa 2 nhóm không có sự khác biệt nào về tỷ lệ trẻ sinh sống cộng dồn, tuổi thai khi sinh, chiều dài cơ thể và cân nặng của trẻ khi sinh, bất kể đơn thai hay song thai.
Trong quá trình theo dõi, 7/65 bệnh nhân BOT từ chối chia sẻ tình trạng tái phát ung thư sau IVF/ICSI. Nghiên cứu ghi nhận 5 trường hợp tái phát ung thư, với tỷ lệ 8,62% (5/58), tuy nhiên lại không có sự tương quan giữa nguy cơ tái phát và các yếu tố (giai đoạn BOT, loại bệnh lý, vị trí tổn thương, phương pháp FSS, thời gian từ phẫu thuật đến IVF, số chu kỳ kích thích hay nồng độ E2 cao nhất trong quá trình kích thích buồng trứng).
Một số nghiên cứu trước đây đã đề xuất phương pháp tiếp cận cho bệnh nhân BOT sau FSS là các phác đồ kích thích buồng trứng nhẹ, để giảm rủi ro nồng độ E2 vượt mức sinh lý bình thường kích thích sự tái phát của các tế bào khối u còn sót lại. Tuy nhiên, nghiên cứu lại không ghi nhận mối liên hệ đáng kể giữa loại phác đồ kích thích, số chu kỳ kích thích hoặc mức độ E2 và sự tái phát của khối u. Bên cạnh đó, việc triển khai phác đồ kích thích nhẹ có thể ảnh hưởng số lượng noãn thu nhận, từ đó giảm tỷ lệ thai cộng dồn. Một nghiên cứu của Basille (2006) đánh giá ảnh hưởng của FSH và E2 lên tế bào BOT ở mức độ in vitro. Mặc dù các tế bào nuôi cấy biểu hiện thụ thể của FSH và E2, song cả 2 hormone đều không kích thích tăng sinh tế bào BOT thanh dịch. Đồng nghĩa, FSH và E2 có thể được sử dụng để điều trị vô sinh ở những bệnh nhân BOT sau phẫu thuật.
Cho đến nay, đây là nghiên cứu lớn nhất đánh giá kết quả IVF/ICSI của nhóm bệnh nhân BOT với cỡ mẫu lên đến 65 bệnh nhân. Bên cạnh đó, điểm mạnh của nghiên cứu còn nằm ở thiết kế so sánh kết quả điều trị giữa 2 nhóm BOT và nhóm không BOT. Tuy nhiên, hạn chế của nghiên cứu là nghiên cứu hồi cứu và không thể loại trừ hết rủi ro tiềm ẩn liên quan đến khả năng đáp ứng với hormone của các tế bào BOT còn lại. Do đó, cần có các nghiên cứu triển vọng quy mô lớn trong tương lai để đánh giá thêm tác động lâu dài của các chiến lược kích thích buồng trứng khác nhau đối với nguy cơ tái phát và kết quả sinh sản ở bệnh nhân BOT.
Tóm lại, nghiên cứu chứng minh điều trị IVF/ICSI có thể được coi là một lựa chọn khả thi và kích thích buồng trứng có kiểm soát không làm tăng đáng kể nguy cơ tái phát khối u ở nhóm bệnh nhân này. Các nghiên cứu triển vọng tiếp theo với nhóm đối tượng lớn hơn là cần thiết để xác nhận tính an toàn và hiệu quả lâu dài của IVF/ICSI ở những bệnh nhân BOT và để tối ưu hóa các chiến lược kích thích buồng trứng được cá nhân hóa.

Nguồn: Li, Yujie, et al. "Infertile women with a history of fertility-sparing surgery for borderline ovarian tumors: IVF outcomes and the association between IVF and tumor recurrence." Reproductive Biology and Endocrinology 23.1 (2025): 1-7.

Các tin khác cùng chuyên mục:
Giảm cân làm tăng cơ hội mang thai - Ngày đăng: 20-07-2025
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Ngày 9 - 10 . 8 . 2025, Vinpearl Landmark 81 (Số 720A Điện BIên Phủ, ...

Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, chiều thứ bảy 9 . 8 . 2025 (13:00 - 16:30)

Năm 2020

Chủ nhật ngày 21 . 9 . 2025, Caravelle Hotel Saigon, Số 19 - 23 Công ...

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Sách ra mắt ngày 11 . 7 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK