CNSH. Nguyễn Thị Trang - IVFMD Tân Bình - Bệnh viện Mỹ Đức
Tổng quan
Kể từ khi được giới thiệu lần đầu vào những năm 1950, kỹ thuật đông lạnh tinh trùng đã dần được chuẩn hóa và sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Phương pháp này đặc biệt hữu ích trong việc lưu trữ những mẫu từ bệnh nhân ung thư, mắc bệnh lý hoặc chất lượng tinh trùng yếu, tinh trùng thu nhận từ phẫu thuật, vận chuyển đi xa hoặc lưu trữ lâu dài tại ngân hàng tinh trùng.
Dù mang lại nhiều lợi ích, về mặt lý thuyết quá trình đông lạnh có thể ảnh hướng đến chức năng, tỷ lệ sống và độ di động tinh trùng. Những thay đổi quan trọng nhất có thể bao gồm sự gia tăng hình thành các gốc oxi hóa tự do (reactive oxygen species - ROS) do mất các yếu tố chống oxi hóa trong tinh tương trong quá trình xử lý tinh trùng; sự thay đổi áp suất thẩm thấu gây co xoắn nhiễm sắc thể; chết theo chương trình (apoptosis); và sự giải phóng enzyme endonucleases gây tổn thương DNA.
Một số nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt đáng kể giữa các chu kỳ sử dụng tinh trùng tươi và trữ về sự phát triển phôi, chất lượng phôi nang, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ mang thai (pregnancy rate - PR) và tỷ lệ trẻ sinh sống (live birth rate - LBR), tuy nhiên có nghiên cứu lại cho thấy sử dụng tinh trùng tươi cho tỷ lệ thụ tinh và thai lâm sàng cao hơn cũng như có tỷ lệ sảy thai thấp hơn. Phần lớn các nghiên cứu hiện tại chủ yếu tập trung vào các mẫu tinh trùng chất lượng thấp, mẫu từ phẫu thuật hoặc thực hiện các chu kỳ IUI (intrauterine insemination), trong khi dữ liệu liên quan đến mẫu tinh trùng xuất tinh tươi trong các chu kỳ ICSI (intracytoplasmic sperm injection) vẫn còn hạn chế.
Do đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá tác động của việc đông lạnh tinh trùng trước khi ICSI trong các chu kỳ sử dụng noãn hiến tặng, so sánh kết quả sinh sản với kết quả của các chu kỳ sử dụng tinh trùng xuất tinh tươi. Các chỉ số được đánh giá bao gồm tỷ lệ trẻ sinh sống cộng dồn (cumulative live birth rate - CLBR) trên mỗi noãn được sử dụng, mỗi phôi trữ lạnh và mỗi lần chuyển phôi (embryo transfer - ET).
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu hồi cứu đa trung tâm thực hiện trên 37.341 cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh từ năm 2008 đến 2022. Tổng cộng 44.423 chu kỳ được thực hiện và được chia thành hai nhóm: 34.336 chu kỳ sử dụng tinh trùng tươi và 10.083 chu kỳ sử dụng tinh trùng đông lạnh. Các chu kỳ sử dụng cả noãn đông lạnh và tươi trong cùng một chu kỳ ICSI bị loại khỏi nghiên cứu.
Noãn được hiến từ những tình nguyện viên trẻ, có sức khỏe tốt, và được thu nhận theo quy trình chuẩn. Sau ICSI, hợp tử được nuôi cấy trong điều kiện thích hợp. Sự phát triển và chất lượng phôi được đánh giá theo tiêu chí của Hiệp hội Sinh học Sinh sản Tây Ban Nha (The Spanish Association of Biology of Reproduction - ASEBIR). Phôi được chuyển tươi hoặc sau khi trữ lạnh–rã đông, tùy theo yêu cầu của bệnh nhân và đặc điểm của chu kỳ.
Mẫu tinh dịch tươi được lấy bằng thủ dâm sau 3–5 ngày kiêng xuất tinh, xử lý và đánh giá theo hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization - WHO) 2010. Các mẫu đông lạnh được rã đông vào ngày ICSI.
Kết quả sinh sản được đánh giá bao gồm: tỷ lệ thai sinh hóa, thai lâm sàng, thai tiến triển, sảy thai sinh hóa, sảy thai lâm sàng, tỷ lệ sảy thai chung, tỷ lệ trẻ sinh sống (LBR) và tỷ lệ trẻ sinh sống cộng dồn (CLBR). Ngoài ra, các phân tích được hiệu chỉnh theo các yếu tố có thể ảnh hưởng đến kết quả chu kỳ, bao gồm: tuổi và BMI (body mass index) của người nhận và người nam, số lượng tinh trùng di động tiến tới, phương pháp lọc rửa tinh trùng, thời điểm chuyển phôi (ngày 3 hoặc ngày 5–6), việc thực hiện PGT-A (preimplantation genetic testing for aneuploidy), và tình trạng noãn (tươi hay đông lạnh).
Kết quả nghiên cứu
Tỷ lệ mang thai, trẻ sinh sống và sảy thai trong lần chuyển phôi đầu tiên
Kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ thai sinh hóa, thai lâm sàng, thai diễn tiến, trẻ sinh sống, sảy thai sinh hóa và sảy thai lâm sàng giữa hai nhóm. Cụ thể, nhóm sử dụng tinh trùng đông lạnh có tỷ lệ thai sinh hóa, thai lâm sàng và thai diễn tiến thấp hơn so với nhóm dùng mẫu tươi. Ngoài ra nhóm sử dụng tinh trùng đông lạnh có tỷ lệ trẻ sinh sống thấp hơn (4,57%) trong lần chuyển phôi đầu tiên, đặc biệt tỷ lệ này vẫn có ý nghĩa thống kê sau khi phân tích đa biến. Tuy nhiên, tỷ lệ sảy thai sinh hóa và thai lâm sàng không có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm sau khi được điều chỉnh.
Tỷ lệ mang thai, sinh con và sảy thai theo ET
Các kết quả đều cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm tinh trùng đông lạnh và tươi sau khi phân tích đơn biến. Tỷ lệ thai sinh hóa, lâm sàng và diễn tiến giảm khi sử dụng tinh trùng đông lạnh cho ICSI so với mẫu tươi. Nhóm tinh trùng đông lạnh cho thấy LBR thấp hơn 3,95% so với nhóm mẫu tươi và tỷ lệ sảy thai sinh hóa cao hơn 2,66%. Sự khác biệt giữa các nhóm về tỷ lệ sảy thai lâm sàng và tỷ lệ sảy thai chung không còn có ý nghĩa thống kê nữa sau khi phân tích đa biến.
Tỷ lệ trẻ sinh sống cộng dồn
CLBR được tính toán trên mỗi noãn MII (noãn ở giai đoạn kỳ giữa II – metaphase II) đã thụ tinh, trên mỗi phôi đông lạnh và trên mỗi ET. CLBR sau khi sử dụng năm noãn là 9,22% trong nhóm tinh trùng tươi so với 8,62% trong nhóm tinh trùng đông lạnh. Sau khi sử dụng 10 noãn, tỷ lệ là 45,88% và 44,22%; và sau 15 noãn, 74,02% và 74,23%. Tuy nhiên sau khi điều chỉnh, sự khác biệt về CLBR trên mỗi noãn được thụ tinh giữa nhóm mẫu tươi và đông lạnh không còn ý nghĩa thống kê. Số lượng noãn trung bình cần thiết để đạt được tỷ lệ trẻ sinh sống trong nhóm mẫu tươi là 12,89 ± 0,14, trong khi nhóm mẫu đông lạnh cần trung bình 13,43 ± 0,60.
CLBR sau khi một, ba, năm phôi được chuyển lần lượt là 24,01%; 57,72%; 73,31% trong nhóm tinh trùng tươi so với 16,99%; 49,75%; 66,70% trong nhóm tinh trùng đông lạnh. Nhóm tinh trùng tươi cần trung bình 4,04 ± 0,05 phôi được chuyển để đạt được một trẻ sinh sống trong khi đó nhóm tinh trùng đông lạnh cần 4,49 ± 0,08 phôi.
Khi số liệu được biểu diễn trên một, ba và năm lần chuyển phôi, CLBR trong nhóm tinh trùng tươi là 41,18%; 69,99% và 81,59%, trong khi nhóm tinh trùng đông lạnh là 36,67%, 65,22% và 77,97%, tương ứng. Sự khác biệt giữa các nhóm vẫn có ý nghĩa thống kê sau khi đã điều chỉnh. Nhóm sử dụng tinh trùng tươi cần trung bình 3,07 ±0,06 lần chuyển để đạt được một trẻ sinh sống, trong khi nhóm mẫu đông lạnh cần 3,48 ±0,10.
Thảo luận
Mặc dù đông lạnh tinh trùng là một quy trình phổ biến và mang lại nhiều lợi ích, nghiên cứu cho thấy việc sử dụng tinh trùng đông lạnh có liên quan đến việc giảm nhẹ (khoảng 3,95% - 4,57%) tỷ lệ trẻ sinh sống (LBR) và tỷ lệ mang thai (PR), cũng như tăng nhẹ tỷ lệ sảy thai sinh hóa so với tinh trùng tươi. Sự suy giảm này có thể do đông lạnh-rã đông làm tăng phân mảnh DNA và oxy hóa tinh trùng. Tuy nhiên cơ chế đằng sau những sự kiện này vẫn chưa được làm rõ, có thể là do màng ty thể bị thay đổi dẫn đến tăng sản xuất ROS và gây tổn thương DNA tinh trùng.
Tuy nhiên, các tác giả nhấn mạnh rằng tuy những khác biệt này có ý nghĩa thống kê nhưng không lớn về mặt lâm sàng, và lợi ích của việc đông lạnh tinh trùng vẫn vượt trội hơn nhược điểm nhỏ này trong một số trường hợp cụ thể.
Điểm mạnh chính của nghiên cứu là quy mô mẫu lớn, giúp phát hiện những khác biệt nhỏ. Tuy nhiên hạn chế chính là nghiên cứu hồi cứu, có thể có sự thay đổi trong kỹ thuật đông lạnh và quy trình IVF (in vitro fertilization) theo thời gian.
Kết luận
Nghiên cứu cho thấy trong các chu kỳ ICSI sử dụng noãn hiến tặng, tinh trùng đông lạnh có thể làm giảm nhẹ tỷ lệ thai sinh hóa, lâm sàng, thai diễn tiến, cũng như tỷ lệ trẻ sinh sống (LBR) và tỷ lệ trẻ sinh sống cộng dồn (CLBR). Tuy nhiên điều này ít quan trọng hơn khi xét đến những lợi ích của việc đông lạnh tinh trùng mang lại cho hoạt động hàng ngày của một trung tâm điều trị vô sinh. Mặc dù vậy, cần phải thừa nhận rằng việc sử dụng tinh trùng đông lạnh có thể làm giảm nhẹ một vài tỷ lệ như trên, và điều này nên được cân nhắc khi lên kế hoạch điều trị cho bệnh nhân.
Tài liệu tham khảo: María Gil Juliá , Mauro Cozzolino , Ana Navarro-Gomezlechon , Irene Hervas và cộng sự. Assessment of reproductive outcomes of fresh versus cryopreserved ejaculated sperm samples-a retrospective analysis of 44 423 oocyte donation ICSI cycles. Human reproduction. 2024; 39 (7):1381-1389.










Ngày 9 - 10 . 8 . 2025, Vinpearl Landmark 81 (Số 720A Điện BIên Phủ, ...
Vinpearl Landmark 81, chiều thứ bảy 9 . 8 . 2025 (13:00 - 16:30)
Chủ nhật ngày 21 . 9 . 2025, Caravelle Hotel Saigon, Số 19 - 23 Công ...

Sách ra mắt ngày 11 . 7 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...