Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Sunday 13-07-2025 10:53pm
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

Kỹ sư Nguyễn Thị Nguyệt
Đơn vị HTSS IVFMD FAMILY, BVĐK Gia Đình, Đà Nẵng

Số lượng phôi được chuyển trong quy trình thụ tinh trong ống nghiệm (in vitro fertilization - IVF) được xem là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả lâm sàng. Việc tăng số lượng phôi chuyển có thể cải thiện tỷ lệ có thai lâm sàng, nhưng đồng thời làm gia tăng đáng kể tỷ lệ đa thai – một yếu tố nguy cơ cao đối với biến chứng thai kỳ và sơ sinh, bao gồm sinh non, nhẹ cân và các vấn đề sức khỏe lâu dài cho cả mẹ và trẻ. Tại Trung Quốc, tỷ lệ đa thai trong các chu kỳ hỗ trợ sinh sản (assisted reproductive technology - ART) vượt quá 30%, so với chỉ khoảng 1% trong thai kỳ tự nhiên. Để hạn chế biến chứng do đa thai, hầu hết các trung tâm hỗ trợ sinh sản hiện nay chỉ chuyển 1–2 phôi mỗi chu kỳ. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy ngay cả những thai đơn sau chuyển hai phôi (double embryo transfer- DET) cũng có thể có nguy cơ bất lợi cao hơn so với chuyển một phôi (single embryotransfer - SET), do hiện tượng hấp thu phôi thoái triển có thể gây viêm nội mạc tử cung ảnh hưởng đến phôi còn sống sót.
 
Phương pháp nghiên cứu
Đây là nghiên cứu hồi cứu, thu thập dữ liệu từ các cặp vợ chồng có thai đơn sau chuyển phôi đông lạnh (frozen-thawed embryo transfer - FET) tại Trung tâm Hỗ trợ Sinh sản, Bệnh viện Sản Nhi Thường Châu từ tháng 1/2017 đến tháng 9/2022. Các chu kỳ FET được phân chia theo giai đoạn phôi thành nhóm P1 (phôi ngày 3) và P2 (phôi nang ngày 5 hoặc 6), sau đó tiếp tục chia thành nhóm SET (chuyển một phôi) và DET (chuyển hai phôi). Ngoài ra, nhóm P3 gồm các trường hợp chuyển phôi nang ngày 5 chất lượng tốt cũng được phân tích riêng. Các trường hợp thai ngoài tử cung, sảy thai tự nhiên, có tiền sử dị dạng tử cung, bất thường nhiễm sắc thể, ung thư, hoặc sử dụng tinh trùng phẫu thuật hoặc rescue-ICSI đều bị loại trừ. Tất cả phôi được đánh giá hình thái theo tiêu chuẩn đã công bố. Dữ liệu được phân tích bằng SPSS v21, sử dụng hồi quy logistic nhị phân để đánh giá ảnh hưởng của số lượng phôi chuyển đến tỷ lệ mất thai lâm sàng, hiệu chỉnh theo nhiều yếu tố gây nhiễu. Giá trị p < 0,05 được xem là có ý nghĩa thống kê.
Kết quả
Trong các chu kỳ chuyển phôi ngày 3 (P1), hai nhóm chuyển một phôi (SET) và hai phôi (DET) có nhiều đặc điểm nền tương đồng, bao gồm: thời gian vô sinh, chẩn đoán nguyên nhân vô sinh, chỉ số BMI của cả hai giới, tỷ lệ bệnh nhân ≥35 tuổi, chỉ số phân mảnh DNA tinh trùng (DNA fragmentation index - DFI), tỷ lệ bệnh nhân có DFI >30%, số chu kỳ chuyển phôi thất bại trước đó, phác đồ kích thích buồng trứng, phương pháp thụ tinh, phương pháp chuẩn bị nội mạc, độ dày nội mạc tử cung, và tỷ lệ chuyển phôi loại III.
Tuy nhiên, nhóm DET có những đặc điểm vượt trội sau:

  • Tỷ lệ vô sinh nguyên phát cao hơn

  • Tuổi trung bình của cả nam và nữ thấp hơn tại thời điểm chọc hút noãn hoặc chuyển phôi

  • Số lượng noãn thu được nhiều hơn

  • Tỷ lệ bệnh nhân từng trải qua ≥1 chu kỳ IVF trước đó cao hơn

  • Tỷ lệ chu kỳ chuyển có ≥1 phôi loại III cao  hơn

Tỷ lệ sảy thai lâm sàng giữa SET và DET trong P1 không có sự khác biệt đáng kể.
Trong các chu kỳ chuyển phôi nang (P2), nhóm DET có:

  • Tuổi của cả hai giới thấp hơn

  • Tỷ lệ nữ có BMI >30% thấp hơn

  • Chỉ số DFI thấp hơn

  • Tỷ lệ bệnh nhân có chu kỳ chuyển thất bại trước đó cao hơn

  • Tỷ lệ sử dụng kích thích buồng trứng để chuẩn bị nội mạc cao hơn

  • Tỷ lệ phôi ngày 5 hoặc phôi hình thái tốt thấp hơn

  • Tỷ lệ chuyển ≥1 phôi ngày 6 hoặc phôi hình thái không tốt cao hơn

Tỷ lệ sẩy thai lâm sàng ở nhóm DET cao hơn SET trong P2, nhưng không có ý nghĩa thống kê (p=0,08).
Sau khi hiệu chỉnh các yếu tố gây nhiễu, DET làm tăng nguy cơ sẩy thai lâm sàng theo mức độ phát triển của phôi:

  • P1 (phôi ngày 3): OR = 1,18 (KTC 95%: 0,74–1,90), p = 0,46

  • P2 (phôi nang): OR = 1,34 (KTC 95%: 0,96–1,87), p = 0,08

  • P3 (phôi nang tốt): OR = 1,55 (KTC 95%: 1,02–2,37), p = 0,04

Kết quả cho thấy DET làm tăng nguy cơ sảy thai lâm sàng, đặc biệt ở các phôi có tiềm năng phát triển cao, có thể liên quan đến phản ứng viêm nội mạc tử cung thứ phát sau khi mất một trong hai phôi trong giai đoạn muộn.
Kết luận
Nghiên cứu này chỉ ra rằng việc chuyển hai phôi nang Ngày 5 có hình thái tốt (DET) làm tăng đáng kể nguy cơ sảy thai lâm sàng ở các thai kỳ đơn sau chuyển phôi trữ lạnh (FET), so với chuyển một phôi cùng loại (SET). Nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng sự thoái triển của một phôi có tiềm năng phát triển cao trong DET có thể kích hoạt phản ứng viêm quá mức, làm ảnh hưởng đến phôi còn lại trong thai kỳ đơn. Do đó, SET nên được ưu tiên đặc biệt với phôi nang Ngày 5 hình thái tốt nhằm bảo tồn khả năng sống còn của các phôi có tiềm năng cao. Các kết quả này cũng hỗ trợ khuyến nghị mới nhất của ESHRE về việc hạn chế số lượng phôi chuyển trong IVF/ICSI.

Nguồn tham khảo
Wang Y, Wan Q, Lu X, Li L, Wang H, Chen L, Dai X. The transfer of double morphologically good Day 5 blastocysts increases the risk of clinical pregnancy loss in singleton pregnancies following frozen-thawed embryo transfer. Front Endocrinol (Lausanne). 2025 Apr 16;16:1508014. doi: 10.3389/fendo.2025.1508014. PMID: 40309440; PMCID: PMC12040684.


Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Chủ nhật ngày 21 . 9 . 2025, Caravelle Hotel Saigon, Số 19 - 23 Công ...

Năm 2020

Tiền Hội nghị: Trung tâm Hội nghị Grand Saigon, thứ bảy ngày ...

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Sách ra mắt ngày 11 . 7 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK