Tin tức
on Thursday 05-08-2021 6:08pm
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Phạm Duy Tùng - IVFMD Tân Bình
Thụ tinh trong ống nghiệm (in vitro fertilization – IVF) đã được thực hành rộng rãi trên thế giới trong nhiều năm, tuy nhiên, vẫn có nhiều tranh cãi xung quanh điều kiện nuôi cấy phôi lý tưởng. Quy trình nuôi phôi tiêu chuẩn vẫn có sự khác nhau giữa các phòng lab nuôi phôi. Có vô số điều kiện có thể tác động đến sự phát triển của phôi và kết quả thai của một chu kỳ điều trị như: loại môi trường được sử dụng (nhà sản xuất, thành phần, hệ môi trường đơn bước hay chuyển tiếp), nhiệt độ và nồng độ các khí trong tủ cấy, có hay không việc bổ sung các yếu tố tăng trưởng vào môi trường nuôi cấy và các yếu tố về trang thiết bị được sử dụng trong phòng lab nuôi phôi.
Một tranh cãi phổ biến khác là việc nuôi cấy đơn phôi hay nuôi cấy thành nhóm (một giọt môi trường chứa nhiều phôi). Quan điểm nuôi cấy nhóm lý luận việc nuôi nhiều phôi trong giọt môi trường giúp phôi phát triển tốt hơn do có nồng độ cao hơn của các yếu tố kích thích sinh trưởng được tiết ra từ những phôi trong giọt môi trường. Từ đó, các phôi có trong giọt môi trường có thể hỗ trợ nhau để phát triển tốt hơn. Hơn nữa, nuôi cấy nhóm còn giúp giảm lượng đĩa cấy và môi trường sử dụng, từ đó giảm chi phí vận hành và rác thải ra môi trường cho các phòng lab nuôi phôi.
Ở phía ngược lại, nhiều ý kiến cho rằng việc nuôi cấy nhiều phôi trong một giọt môi trường sẽ làm nồng độ các thành phần dinh dưỡng trong môi trường giảm nhanh chóng, đồng thời nếu phôi mang các bất thường nhiễm sắc thể có thể tiết ra các chất có hại cho những phôi nguyên bội xung quanh. Việc nuôi cấy đơn phôi cũng được áp dụng trong những trường hợp cần theo dõi sự phát triển của từng phôi riêng biệt nhằm mục đích lựa chọn phôi hoặc thực hiện nghiên cứu. Đặc biệt, nuôi cấy đơn phôi còn được sử dụng để thực hiện xét nghiệm các tín hiệu sinh học được phôi tiết ra ngoài môi trường nuôi cấy hoặc thực hiện xét nghiệm sàng lọc tiền làm tổ không xâm lấn. Bên cạnh đó, các tủ nuôi cấy Timelapse hiện tại cũng yêu cầu phải nuôi cấy đơn phôi để theo dõi.
Mặc dù có nhiều tình huống sử dụng nuôi cấy đơn nhưng sự phổ biến của nuôi cấy nhóm vẫn tiếp tục phát triển và phổ biến trong hơn 30 năm qua. Nhiều phòng lab nuôi phôi chuyển dần sang nuôi cấy nhóm do có nhiều dữ liệu cho thấy việc nuôi cấy nhóm giúp cải thiện đáng kể hiệu quả nuôi cấy phôi, trong đó có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng việc nuôi cấy nhóm có thể làm tăng tỷ lệ phôi phân chia, chất lượng phôi và tỷ lệ hình thành phôi nang chất lượng tốt. Thêm vào đó, nhiều nghiên cứu còn cho thấy nuôi cấy nhóm giúp cải thiện tỷ lệ thai, như nghiên cứu của Ebner và cộng sự (2010) cho thấy tỷ lệ trẻ sinh sống của nhóm nuôi cấy nhóm cao hơn nhóm nuôi cấy đơn trên nhóm bệnh nhân chuyển phôi tươi.
Trong những năm gần đây, xu hướng thực hành chuyển dần sang các chu kỳ trữ lạnh phôi toàn bộ và chuyển phôi đông lạnh, do nhiều lý do như các chu kỳ chuyển phôi trữ cho phép chuyên viên phôi học chờ các kết quả xét nghiệm di truyền tiền làm tổ phát hiện lệch bội nhiễm sắc thể (preimplantation testing for aneuploidy – PGT-A), cải thiện sự đồng bộ giữa nội mạc tử cung và phôi, tối ưu tỷ lệ làm tổ và mang thai nhờ vào việc chờ nồng độ hormone trong cơ thể về mức bình thường tại thời điểm chuyển phôi và cũng tránh được nguy cơ gặp hội chứng quá kích buồng trứng của bệnh nhân trong chu kỳ kích thích buồng trứng.
Hiệu quả về nuôi cấy đơn hay nuôi cấy nhóm vẫn chưa được trả lời một cách rõ ràng trong hiện tại thực hành lâm sàng trữ phôi toàn bộ và chuyển phôi trữ sau đó. Do vậy, nghiên cứu được thực hiện nhằm so sánh hiệu quả giữa 2 phương pháp nuôi cấy này trên các bệnh nhân được chỉ định trữ lạnh phôi toàn bộ và thực hiện các chu kỳ chuyển phôi trữ một phôi nang nguyên bội.
Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu với đối tượng nghiên cứu là những phụ nữ thực hiện ICSI, độ tuổi từ 18.0 đến 42.9 vào thời điểm chọc hút noãn. Bệnh nhân thực hiện PGT-A và có ít nhất một phôi nguyên bội. Nghiên cứu không bao gồm những cặp vợ chồng đã thực hiện IVF trước đó bị hủy hoặc thất bại chu kỳ, người vợ giảm dự trữ buồng trứng, nhẹ cân hoặc béo phì (BMI <18.5 kg/m2 hoặc >35 kg/m2), người chồng có tổng số tinh trùng di động ít <100,000 hoặc thực hiện thủ thuật trích tinh trùng từ tinh hoàn, có tiền căn sảy thai trên 2 lần, nội mạc tử cung tăng sinh kém (độ dày niêm mạc tử cung < 7 mm), xin noãn hoặc mang thai hộ.
Những bệnh nhân đáp ứng được các yêu cầu của nghiên cứu được nuôi cấy đơn, kết quả sau đó được so sánh với quần thể đối chứng thực hiện nuôi cấy nhóm. Nhóm đối chứng cũng được đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về tuổi, BMI và dự trữ buồng trứng.
Nghiên cứu đánh giá kết quả phôi dựa trên tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ hình thành phôi nang. Trong đó, tỷ lệ thụ tinh được tính dựa trên số hợp tử xuất hiện 2 tiền nhân trên số noãn trưởng thành MII được thực hiện tiêm tinh trùng vào bào tương noãn. Tỷ lệ hình thành phôi nang được tính dựa trên số phôi nang phát triển có đủ chất lượng để thực hiện sinh thiết phôi và trữ lạnh trên số noãn thụ tinh. Tổng cộng có 593 bệnh nhân đạt các yêu cầu của nghiên cứu, trong đó có 144 bệnh nhân có phôi được nuôi cấy đơn và 449 bệnh nhân nuôi cấy nhóm làm đối chứng. Sự chênh lệch về độ tuổi và BMI trung bình giữa 2 nhóm cũng như các yếu tố khác như AMH hay nồng độ FSH vào ngày 3 là không đáng kể. Kết quả cho thấy:
Nghiên cứu cung cấp thêm thông tin về tác động của phương pháp nuôi cấy đơn và nuôi cấy nhóm đến kết quả lâm sàng trong các chu kỳ trữ lạnh phôi toàn bộ và chỉ chuyển phôi trữ hiện được thực hành tại nhiều phòng lab nuôi phôi. Điều này phù hợp với xu hướng dần chuyển sang việc chuyển phôi đông lạnh của các trung tâm hỗ trợ sinh sản trên thế giới.
Tỷ lệ thụ tinh không bị ảnh hưởng bởi phương pháp nuôi cấy đơn hay nhóm, đơn giản do tại thời điểm kiểm tra thụ tinh (khoảng 18 giờ sau ICSI), các phân tử tín hiệu vẫn chưa có đủ trong môi trường để có tác động đến hợp tử. Nhiều ý kiến cho rằng lợi ích của việc nuôi cấy nhóm chủ yếu xuất hiện khi phôi ở giai đoạn phôi dâu, khi phôi đã phát triển được một số các protein có khả năng phát tín hiệu. Kết quả của nghiên cứu này củng cố thêm hiệu quả của phương pháp nuôi cấy nhóm khi cho tỷ lệ phôi phát triển đến giai đoạn phôi nang cao hơn, đồng nghĩa với việc bệnh nhân có nhiều cơ hội có trẻ sinh sống hơn. Không những vậy, số lượng phôi nang hữu dụng nhiều hơn sẽ giúp bệnh nhân có cơ hội có số con mong muốn mà không cần trải qua thêm chu kỳ chọc hút.
Nhìn chung, việc nuôi cấy đơn phôi làm giảm số lượng phôi phát triển đến giai đoạn phôi nang nhưng không ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ thai khi chuyển đơn phôi nang nguyên bội được trữ lạnh.
Nguồn: Glatthorn, H. N., Hanson, B. M., Kim, J. G., Herlihy, N. S., Klimczak, A. M., Hong, K. H., Seli, E., & Scott, R. T., Jr (2021). Individual culture leads to decreased blastocyst formation but does not affect pregnancy outcomes in the setting of a single, vitrified-warmed euploid blastocyst transfer. Journal of assisted reproduction and genetics, 10.1007/s10815-021-02252-8. Advance online publication. https://doi.org/10.1007/s10815-021-02252-8
Thụ tinh trong ống nghiệm (in vitro fertilization – IVF) đã được thực hành rộng rãi trên thế giới trong nhiều năm, tuy nhiên, vẫn có nhiều tranh cãi xung quanh điều kiện nuôi cấy phôi lý tưởng. Quy trình nuôi phôi tiêu chuẩn vẫn có sự khác nhau giữa các phòng lab nuôi phôi. Có vô số điều kiện có thể tác động đến sự phát triển của phôi và kết quả thai của một chu kỳ điều trị như: loại môi trường được sử dụng (nhà sản xuất, thành phần, hệ môi trường đơn bước hay chuyển tiếp), nhiệt độ và nồng độ các khí trong tủ cấy, có hay không việc bổ sung các yếu tố tăng trưởng vào môi trường nuôi cấy và các yếu tố về trang thiết bị được sử dụng trong phòng lab nuôi phôi.
Một tranh cãi phổ biến khác là việc nuôi cấy đơn phôi hay nuôi cấy thành nhóm (một giọt môi trường chứa nhiều phôi). Quan điểm nuôi cấy nhóm lý luận việc nuôi nhiều phôi trong giọt môi trường giúp phôi phát triển tốt hơn do có nồng độ cao hơn của các yếu tố kích thích sinh trưởng được tiết ra từ những phôi trong giọt môi trường. Từ đó, các phôi có trong giọt môi trường có thể hỗ trợ nhau để phát triển tốt hơn. Hơn nữa, nuôi cấy nhóm còn giúp giảm lượng đĩa cấy và môi trường sử dụng, từ đó giảm chi phí vận hành và rác thải ra môi trường cho các phòng lab nuôi phôi.
Ở phía ngược lại, nhiều ý kiến cho rằng việc nuôi cấy nhiều phôi trong một giọt môi trường sẽ làm nồng độ các thành phần dinh dưỡng trong môi trường giảm nhanh chóng, đồng thời nếu phôi mang các bất thường nhiễm sắc thể có thể tiết ra các chất có hại cho những phôi nguyên bội xung quanh. Việc nuôi cấy đơn phôi cũng được áp dụng trong những trường hợp cần theo dõi sự phát triển của từng phôi riêng biệt nhằm mục đích lựa chọn phôi hoặc thực hiện nghiên cứu. Đặc biệt, nuôi cấy đơn phôi còn được sử dụng để thực hiện xét nghiệm các tín hiệu sinh học được phôi tiết ra ngoài môi trường nuôi cấy hoặc thực hiện xét nghiệm sàng lọc tiền làm tổ không xâm lấn. Bên cạnh đó, các tủ nuôi cấy Timelapse hiện tại cũng yêu cầu phải nuôi cấy đơn phôi để theo dõi.
Mặc dù có nhiều tình huống sử dụng nuôi cấy đơn nhưng sự phổ biến của nuôi cấy nhóm vẫn tiếp tục phát triển và phổ biến trong hơn 30 năm qua. Nhiều phòng lab nuôi phôi chuyển dần sang nuôi cấy nhóm do có nhiều dữ liệu cho thấy việc nuôi cấy nhóm giúp cải thiện đáng kể hiệu quả nuôi cấy phôi, trong đó có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng việc nuôi cấy nhóm có thể làm tăng tỷ lệ phôi phân chia, chất lượng phôi và tỷ lệ hình thành phôi nang chất lượng tốt. Thêm vào đó, nhiều nghiên cứu còn cho thấy nuôi cấy nhóm giúp cải thiện tỷ lệ thai, như nghiên cứu của Ebner và cộng sự (2010) cho thấy tỷ lệ trẻ sinh sống của nhóm nuôi cấy nhóm cao hơn nhóm nuôi cấy đơn trên nhóm bệnh nhân chuyển phôi tươi.
Trong những năm gần đây, xu hướng thực hành chuyển dần sang các chu kỳ trữ lạnh phôi toàn bộ và chuyển phôi đông lạnh, do nhiều lý do như các chu kỳ chuyển phôi trữ cho phép chuyên viên phôi học chờ các kết quả xét nghiệm di truyền tiền làm tổ phát hiện lệch bội nhiễm sắc thể (preimplantation testing for aneuploidy – PGT-A), cải thiện sự đồng bộ giữa nội mạc tử cung và phôi, tối ưu tỷ lệ làm tổ và mang thai nhờ vào việc chờ nồng độ hormone trong cơ thể về mức bình thường tại thời điểm chuyển phôi và cũng tránh được nguy cơ gặp hội chứng quá kích buồng trứng của bệnh nhân trong chu kỳ kích thích buồng trứng.
Hiệu quả về nuôi cấy đơn hay nuôi cấy nhóm vẫn chưa được trả lời một cách rõ ràng trong hiện tại thực hành lâm sàng trữ phôi toàn bộ và chuyển phôi trữ sau đó. Do vậy, nghiên cứu được thực hiện nhằm so sánh hiệu quả giữa 2 phương pháp nuôi cấy này trên các bệnh nhân được chỉ định trữ lạnh phôi toàn bộ và thực hiện các chu kỳ chuyển phôi trữ một phôi nang nguyên bội.
Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu với đối tượng nghiên cứu là những phụ nữ thực hiện ICSI, độ tuổi từ 18.0 đến 42.9 vào thời điểm chọc hút noãn. Bệnh nhân thực hiện PGT-A và có ít nhất một phôi nguyên bội. Nghiên cứu không bao gồm những cặp vợ chồng đã thực hiện IVF trước đó bị hủy hoặc thất bại chu kỳ, người vợ giảm dự trữ buồng trứng, nhẹ cân hoặc béo phì (BMI <18.5 kg/m2 hoặc >35 kg/m2), người chồng có tổng số tinh trùng di động ít <100,000 hoặc thực hiện thủ thuật trích tinh trùng từ tinh hoàn, có tiền căn sảy thai trên 2 lần, nội mạc tử cung tăng sinh kém (độ dày niêm mạc tử cung < 7 mm), xin noãn hoặc mang thai hộ.
Những bệnh nhân đáp ứng được các yêu cầu của nghiên cứu được nuôi cấy đơn, kết quả sau đó được so sánh với quần thể đối chứng thực hiện nuôi cấy nhóm. Nhóm đối chứng cũng được đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về tuổi, BMI và dự trữ buồng trứng.
Nghiên cứu đánh giá kết quả phôi dựa trên tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ hình thành phôi nang. Trong đó, tỷ lệ thụ tinh được tính dựa trên số hợp tử xuất hiện 2 tiền nhân trên số noãn trưởng thành MII được thực hiện tiêm tinh trùng vào bào tương noãn. Tỷ lệ hình thành phôi nang được tính dựa trên số phôi nang phát triển có đủ chất lượng để thực hiện sinh thiết phôi và trữ lạnh trên số noãn thụ tinh. Tổng cộng có 593 bệnh nhân đạt các yêu cầu của nghiên cứu, trong đó có 144 bệnh nhân có phôi được nuôi cấy đơn và 449 bệnh nhân nuôi cấy nhóm làm đối chứng. Sự chênh lệch về độ tuổi và BMI trung bình giữa 2 nhóm cũng như các yếu tố khác như AMH hay nồng độ FSH vào ngày 3 là không đáng kể. Kết quả cho thấy:
- Không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ thụ tinh giữa 2 nhóm (81.7% ± 16.5 ở nhóm nuôi cấy đơn và 84.1% ± 12.6 ở nhóm nuôi cấy nhóm, p=0.22).
- Tỷ lệ hình thành phôi nang ở nhóm nuôi cấy đơn thấp hơn so với nhóm nuôi cấy nhóm (43.5% ± 21.5 so với 48.5% ± 19.5, p < 0.01).
- Khi so sánh kết quả lần chuyển đơn phôi nang nguyên bội đầu tiên, không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ có βhCG (81.9% so với 81.5%, p = 0.91), tỷ lệ làm tổ (63.9% so với 65.0%, p = 0.80), thai sinh hóa (16.7% so với 12.3%, p = 0.18) và tỷ lệ sảy thai (1.4% vs. 4.2%, p = 0.13). Qua đó cho thấy không có sự ảnh hưởng của phương pháp nuôi cấy đơn hay nhóm đến tiềm năng phát triển và làm tổ của phôi.
Nghiên cứu cung cấp thêm thông tin về tác động của phương pháp nuôi cấy đơn và nuôi cấy nhóm đến kết quả lâm sàng trong các chu kỳ trữ lạnh phôi toàn bộ và chỉ chuyển phôi trữ hiện được thực hành tại nhiều phòng lab nuôi phôi. Điều này phù hợp với xu hướng dần chuyển sang việc chuyển phôi đông lạnh của các trung tâm hỗ trợ sinh sản trên thế giới.
Tỷ lệ thụ tinh không bị ảnh hưởng bởi phương pháp nuôi cấy đơn hay nhóm, đơn giản do tại thời điểm kiểm tra thụ tinh (khoảng 18 giờ sau ICSI), các phân tử tín hiệu vẫn chưa có đủ trong môi trường để có tác động đến hợp tử. Nhiều ý kiến cho rằng lợi ích của việc nuôi cấy nhóm chủ yếu xuất hiện khi phôi ở giai đoạn phôi dâu, khi phôi đã phát triển được một số các protein có khả năng phát tín hiệu. Kết quả của nghiên cứu này củng cố thêm hiệu quả của phương pháp nuôi cấy nhóm khi cho tỷ lệ phôi phát triển đến giai đoạn phôi nang cao hơn, đồng nghĩa với việc bệnh nhân có nhiều cơ hội có trẻ sinh sống hơn. Không những vậy, số lượng phôi nang hữu dụng nhiều hơn sẽ giúp bệnh nhân có cơ hội có số con mong muốn mà không cần trải qua thêm chu kỳ chọc hút.
Nhìn chung, việc nuôi cấy đơn phôi làm giảm số lượng phôi phát triển đến giai đoạn phôi nang nhưng không ảnh hưởng đáng kể đến tỷ lệ thai khi chuyển đơn phôi nang nguyên bội được trữ lạnh.
Nguồn: Glatthorn, H. N., Hanson, B. M., Kim, J. G., Herlihy, N. S., Klimczak, A. M., Hong, K. H., Seli, E., & Scott, R. T., Jr (2021). Individual culture leads to decreased blastocyst formation but does not affect pregnancy outcomes in the setting of a single, vitrified-warmed euploid blastocyst transfer. Journal of assisted reproduction and genetics, 10.1007/s10815-021-02252-8. Advance online publication. https://doi.org/10.1007/s10815-021-02252-8
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mối tương quan giữa nồng độ osteopontin trong huyết tương với nồng độ VEGF trong dịch nang, dấu hiệu đánh giá nguy cơ quá kích buồng trứng - Ngày đăng: 04-08-2021
Vai trò của thụ thể prolactin trong sự phát triển nguyên bào nuôi ở phôi người - Ngày đăng: 02-08-2021
Chọn lọc noãn chất lượng tốt bằng MICROFLUIDICS trên mô hình động vật - Ngày đăng: 01-08-2021
FERTDISH: thiết bị microfluidics tích hợp giúp lựa chọn tinh trùng cho ICSI - Ngày đăng: 01-08-2021
Ảnh hưởng của các yếu tố từ nam giới lên tỷ lệ thai của phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung - Ngày đăng: 01-08-2021
Phân tích di truyền học của 570 cặp vợ chồng sẩy thai liên tiếp: Báo cáo kéo dài 11 năm - Ngày đăng: 29-07-2021
Tác động của việc loại bỏ tế bào cumulus sớm đối với kết quả điều trị của bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm: Một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 29-07-2021
Kết quả sản khoa và chu sinh sau khi chuyển phôi đông lạnh phát triển từ hợp tử 0PN và 1PN: một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu - Ngày đăng: 29-07-2021
hCG không cải thiện kết quả của các chu kỳ IVM ở phụ nữ có hội chứng buồng trứng đa nang - Ngày đăng: 28-07-2021
Ảnh hưởng của thời gian vận chuyển mẫu mô buồng trứng trước khi được bảo quản lạnh - Ngày đăng: 28-07-2021
Sự hiện diện của vi khuẩn trong quá trình chuyển phôi có ảnh hưởng đến tỷ lệ có thai trong các chu kỳ icsi hay không? - Ngày đăng: 28-07-2021
Ảnh hưởng của suy thận giai đoạn cuối và ghép thận đến chức năng sinh sản nam - Ngày đăng: 28-07-2021
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK