Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 22-06-2018 8:32am
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế


Hiện tượng song thai một thai lưu, vanishing twin (VT) được Stoeckel mô tả lần đầu năm 1945, là sự ngưng tiến triển tự phát của một thai trong song thai. Hiện tượng này xuất hiện với tần suất 14,8 – 36% ở các trường hợp song thai từ kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Có nghiên cứu cho rằng thai kỳ có VT nguy cơ sinh non và sinh trẻ nhẹ cân cao hơn so với đơn thai, trong khi một số nghiên cứu khác lại không ghi nhận sự khác biệt. Hơn nữa, hiện chưa có dữ liệu về biến chứng thai kỳ có VT.
Nhằm trả lời cho các câu hỏi liên quan đến kết cục thai kỳ có song thai một thai lưu, một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu với cỡ mẫu lớn được tiến hành. Mục tiêu của nghiên cứu là so sánh tỷ lệ các biến chứng thai kỳ và kết cục xấu ở trẻ sơ sinh giữa 3 nhóm: vanishing twin, đơn thai và song thai từ IVF. Tiêu chuẩn chẩn đoán VT trong nghiên cứu dựa trên siêu âm ghi nhận hình ảnh 2 túi thai với 1 túi thai thoái triển tại thời điểm £ 14 tuần hoặc không quan sát thấy yolk sac hoặc cực phôi ở 1 trong 2 túi thai, và thai còn lại sống trong tử cung đến ³ 24 tuần. Đơn thai hoặc đa thai cũng được định nghĩa khi có 1 hoặc 2 túi thai phát triển đến ³ 24 tuần. Đối tượng tham gia nghiên cứu đều theo dõi thai đến lúc sinh tại trung tâm nhằm đảm bảo tính chính xác của dữ liệu.

Từ năm 2007-2015, có 14.505 trường hợp IVF được sàng lọc, trong đó có 1189 trường hợp thoả tiêu chuẩn vào nghiên cứu, bao gồm 798 đơn thai, 291 song thai và 100 vanishing twin. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tuổi thai trung bình tại thời điểm sinh và cân nặng trẻ sơ sinh trung bình lần lượt là 38,6 ± 2,3 tuần và 3,207 ± 644 g ở đơn thai, 35,5 ± 2,7 tuần và 2,539 ± 610 g ở song thai, và 38,5 ± 1,8 tuần và 3.175 ± 599 g ở vanishing twin. So với song thai, VT có tỷ lệ sinh non và tỷ lệ trẻ sinh nhẹ cân so với tuổi thai thấp hơn. Về biến chứng thai kỳ, tỷ lệ tăng huyết áp thai kỳ, băng huyết sau sinh và mổ lấy thai cao hơn trong nhóm song thai so với nhóm VT, trong khi tỷ lệ này không khác biệt khi so sánh giữa nhóm VT và đơn thai. Tỷ lệ nhau tiền đạo, nhau bong non và cắt tử cung không khác biệt giữa 3 nhóm. Trong phân tích dưới nhóm, tỷ lệ mổ lấy thai trong nhóm VT với thời điểm thai lưu ghi nhận sau khi có tim thai cao hơn gấp 3 lần so với nhóm trước khi có tim thai. Các kết cục xấu khác không khác biệt giữa 2 nhóm này. 
Tóm lại, trong những thai kỳ sau IVF tiến triển đến ít nhất 24 tuần tuổi thai, vanishing twin và đơn thai có kết cục thai kỳ và kết cục sơ sinh tương tự nhau. Cả hai trường hợp đều có nguy cơ kết cục xấu thấp hơn so với song thai.

BS Hê Thanh Nhã Yến - Bệnh viện Mỹ Đức
Dịch từ nguồn: Romanski, Phillip, A., MD, Perinatal and Peripartum Outcomes in Vanishing Twin Pregnancies Achieved by In Vitro Fertilization, Obstetrics & Gynecology: June 2018 - Volume 131 - Issue 6 - p 1011–1020.

 

 
 
 

Từ khóa: TTTON, song thai
Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK