Theo dữ liệu từ nghiên cứu WHI, estrogen không đối kháng không làm tăng tỷ lệ cũng như tử vong do ung thư phổi ở những phụ nữ mãn kinh.
BS Rowan Chlebowski và các đồng nghiệp thuộc trung tâm y khoa Habor – UCLA ở Torrance, California, báo cáo trên tạp chí online Journal of the National Institute: sau 8 năm theo dõi, những phụ nữ sử dụng estrogen so với nhóm sử dụng giả dược có tỉ lệ mới mắc ung thư phổi hằng năm là 0,15% so với 0,13%, trong khi tỉ lệ tử vong do ung thư phổi ở 2 nhóm tương ứng là 56% và 61%.
Các bệnh nhân ung thư phổi trong 2 nhóm được so sánh về số lượng, giai đoạn và mức độ.
Những kết quả này trái ngược với kết quả của phân tích trước đây của WHI cho thấy có sự gia tăng tỉ lệ tử vong do ung thư phổi trong nhóm những phụ nữ dùng estrogen-progestin kết hợp.
Các nhà nghiên cứu kết luận: “Phát hiện này làm yên lòng những phụ nữ đã cắt tử cung, họ được sử dụng estrogen đơn thuần nhằm điều trị các triệu chứng mãn kinh. Sự khác biệt giữa việc sử dụng estrogen-progestin kết hợp và estrogen đơn thuần trên tỷ lệ tử vong do bệnh ung thư phổi cần nghiên cứu nhiều hơn.”
Hai thử nghiệm ngẫu nhiên của WHI đã được thực hiện nhằm đánh giá lợi ích cho sức khỏe của liệu pháp hormone ở phụ nữ mãn kinh. Trong thử nghiệm thứ nhất, những phụ nữ đã cắt tử cung được chọn ngẫu nhiên vào nhóm sử dụng estrogen hoặc giả dược nhằm phòng ngừa các bệnh lý tim mạch. Trong thử nghiệm thứ hai, những phụ nữ mãn kinh tự nhiên vẫn còn tử cung cũng được chọn ngẫu nhiên vào nhóm sử dụng estrogen-progestin kết hợp hoặc giả dược.
Thử nghiệm sử dụng estrogen không đối kháng kết thúc sau 7,1 năm theo dõi, không có bằng chứng trong việc làm giảm bệnh lý mạch vành và làm tăng nguy cơ đột quỵ ở những phụ nữ được chỉ định dùng liệu pháp hormone (JAMA 2004; 291: 1701-1712). Thử nghiệm so sánh HT kết hợp và giả dược kết thúc sau 5,6 năm khi kết quả cho thấy những nguy cơ do liệu pháp hormone mang lại vượt xa ích lợi của nó (JAMA 2002; 288: 321-333).
Một phân tích của thử nghiệm liệu pháp hormone kết hợp cho thấy tỉ lệ tử vong do ung thư phổi cao hơn đáng kể, nhưng tỷ lệ mới mắc ung thư phổi thì lại không tăng trong nhóm dùng liệu pháp hormone (Lancet 2009; 374: 1243-1251). Cơ sở giải thích sự ảnh hưởng của hormon đối với ung thư phổi do một phần lớn những người mắc ung thư phổi có thụ thể estrogen và progesterons. Ngoài ra, phụ nữ bị ung thư phổi sống lâu hơn nam giới.
Chlebowski và các đồng nghiệp báo cáo kết quả một phân tích tương tự như thử nghiệm estrogen không đối kháng.
Thử nghiệm này bao gồm 10.739 phụ nữ tuổi từ 50 - 79 được sử dụng estrogen liên hợp và nhóm dùng giả dược. Thời gian theo dõi trung bình 7,9 năm, kéo dài đúng như kế hoạch.
Trong nhóm dùng estrogen và dùng giả dược, khoảng phân nửa số người tham gia chưa từng hút thuốc lá, 38% có hút thuốc trước đây và số còn lại phụ nữ đang còn hút thuốc khi tham gia nghiên cứu.
Các tác giả cho biết 61 phụ nữ trong nhóm dùng estrogen và 54 phụ nữ trong nhóm giả dược được chẩn đoán mới mắc bệnh ung thư trong nghiên cứu này, một sự khác biệt không có ý nghĩa. Tất cả nhưng ngoại trừ 16 trường hợp,ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (NSCLC: nonsmall-cell lung cancer), và tỉ lệ NSCLC trong 2 nhóm không khác biệt.
Trong số những phụ nữ mắc bệnh ung thư phổi, ung thư ác tính là nguyên nhân tử vong của 34 trong số 61 bệnh nhân trong nhóm dùng estrogen và của 33 trong số 54 bệnh nhân trong nhóm giả dược, thêm một sự khác biệt không có ý nghĩa..
Tất cả các nguyên nhân tử vong sau chẩn đoán ung thư phổi cũng không khác nhau giữa hai nhóm.
BS. Đoàn Thị Thanh Tâm
Nguồn: Journal of the National Cancer Institute: http://www.medpagetoday.com/OBGYN/HRT/21678.
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...