Các nhà nghiên cứu tại Đại học Texas MD Anderson Cancer Center cho biết: phụ nữ mang thai và bị ung thư vú có khả năng hồi phục và thời gian sống không bệnh tốt hơn so với phụ nữ không mang thai bị ung thư vú. Tiến sĩ Jennifer Litton, trợ lý giáo sư tại MD Anderson's Department of Breast Medical Oncology, đã trình bày những phát hiện này tại Hội nghị chuyên đề ung thư vú năm 2010 và gây ngạc nhiên cho hầu hết các chuyên gia tham dự, bởi lẽ mọi người đều có xu hướng cho rằng thai kỳ làm cho tiên lượng ung thư xấu hơn.
Tiến sĩ Litton và các đồng tác giả nghiên cứu cho biết:
“Cho đến nay, hầu hết các nghiên cứu đã được công bố đều cho rằng bệnh nhân được điều trị ung thư vú trong khi mang thai sẽ cho kết quả điều trị xấu hơn. Tuy nhiên, trước đây, bệnh nhân không được điều trị theo tiêu chuẩn của hóa trị liệu và quá trình điều trị của họ thường bị trì hoãn cho đến sau sinh. Với kinh nghiệm điều trị của MD Anderson trên thai phụ, chúng tôi có thể đánh giá những bệnh nhân này với cách điều trị từ cùng một nhóm bác sĩ điều trị, ở cùng một khoa điều trị với cùng tiêu chuẩn chăm sóc như nhau.”
Richard Theriault, DO, vào năm 1992 là người thiết lập quy trình đầu tiên để kiểm tra phác đồ hóa trị liệu của bệnh ung thư vú trong suốt thai kỳ. Theriault đã thực hiện các nghiên cứu chứng minh hiệu quả và độ an toàn của phác đồ chăm sóc người mẹ mang thai và trẻ - kể từ đó trở thành phác đồ chăm sóc chuẩn. MD Anderson là trung tâm hoạt động lâu đời và có tiềm năng nhất trên thế giới về theo dõi sức khỏe của những bệnh nhân bị ung thư vú trong khi mang thai cũng như con cái của họ.
Tiến sĩ Litton và nhóm nghiên cứu đã chọn 75 thai phụ đang được điều trị ung thư vú. Nhóm chứng gồm 150 phụ nữ không mang thai và được điều trị ung thư vú.
Tất cả phụ nữ được điều trị tại MD Anderson từ năm 1989 đến 2008. Đối tượng nghiên cứu được đối chứng với nhóm chứng dựa vào năm được chẩn đoán bệnh, tuổi và giai đoạn ung thư. Những người trong nhóm chứng nếu sinh con trong vòng một năm sau khi được chẩn đoán bệnh sẽ bị loại khỏi nhóm chứng.
Tất cả bệnh nhân đã được hóa trị liệu theo phác đồ chuẩn với 5-fluorouracil, doxorubicin và cyclophosphamide (FAC). Liệu pháp cho phụ nữ mang thai được bắt đầu sau tam cá nguyệt thứ nhất. Tất cả phụ nữ được điều trị bổ sung theo chỉ định lâm sàng, trong đó thai phụ sẽ được điều trị bổ sung sau sinh. Thời gian theo dõi trung bình là 4,16 năm.
73,94% trong nhóm mang thai vẫn còn sống và không bệnh sau 5 năm, so với 55,75% trong nhóm chứng (phụ nữ không mang thai khi bị ung thư vú). Khả năng sống trong nhóm mang thai là 77,42%, so với 71,86% trong nhóm chứng (không có ý nghĩa thống kê).
Litton cho biết: ”Từ tập hợp các dữ liệu và nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi chưa rõ tại sao bệnh nhân ung thư vú trong khi mang thai lại có kết quả điều trị tốt hơn so với những người không mang thai. Môi trường thai kỳ có một tác nhân sinh học gì làm thay đổi đáp ứng với hóa trị liệu? Hay những bệnh nhân này được điều trị tích cực hơn?”
Các nhà nghiên cứu nói rằng họ cũng không biết tại sao tỉ lệ sống không bệnh lại rất khác nhau ở hai nhóm như vậy. Họ đề nghị cần thực hiện một nghiên cứu ưu tiên tìm câu trả lời cho vấn đề này.
Richard Theriault cho biết:
”MD Anderson có lịch sử lâu đời là tuyến đi đầu trong điều trị ung thư vú cho phụ nữ mang thai, và thông qua nghiên cứu này, chúng tôi thấy việc trị liệu là an toàn cho cả mẹ và con, và cuối cùng chúng tôi đã phát triển được các tiêu chuẩn về chăm sóc. Bây giờ, khi tư vấn cho bệnh nhân ung thư vú đang mang thai, chúng tôi có thể nói với họ cần phải có kỳ vọng rằng họ cũng sẽ đạt kết quả điều trị tốt như bệnh nhân không mang thai, và họ nên bắt đầu điều trị trong tam cá nguyệt thứ hai hoặc thứ ba của thai kỳ.
Nguồn: MD Anderson Cancer Center (University of Texas)
BS Huỳnh Thị Mai Thanh
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...