Tin tức
on Tuesday 21-09-2021 12:29am
Danh mục: Tin quốc tế
NHS. Lê Thị Minh Thương – IVFMD Tân Bình
Hiện nay, tỷ lệ béo phì thừa cân trên toàn thế giới gia tăng rất nhanh. Tình trạng béo phì thừa cân rất nguy hiểm, vì nó không những gây ra mà còn làm trầm trọng thêm một số bệnh lý như: tim mạch, đái tháo đường, ung thư, viêm xương khớp, … dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cao. Trong lĩnh vực sinh sản, phụ nữ béo phì có liên quan đến giảm tỷ lệ thụ thai. Hơn thế nữa, khi mang thai, nguy cơ sẩy thai ba tháng đầu, sẩy thai liên tiếp tăng lên ở những phụ nữ bị béo phì so với những phụ nữ có cân nặng bình thường. Mặt khác, khi xét về nguyên nhân gây sẩy thai trong ba tháng đầu, bất thường về nhiễm sắc thể phôi là nguyên nhân hàng đầu. Vậy khi chuyển những phôi nguyên bội, phụ nữ béo phì thừa cân có bị tăng nguy cơ sẩy thai hay không?
Một nghiên cứu hồi cứu đa trung tâm được thực hiện tại viện nghiên cứu Instituto Valenciano de invtilidad với 3480 chu kỳ điều trị, từ tháng 1 năm 2016 đến tháng 4 năm 2019. Các bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu không có giới hạn về độ tuổi, thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, được chỉ định sinh thiết di truyền tiền làm tổ phôi sàng lọc lệch bội (PGT-A) và trong đó có ít nhất một phôi nguyên bội, chỉ số khối cơ thể (BMI) được ghi nhận khi bệnh nhân bắt đầu kích thích buồng trứng. Để so sánh, các bệnh nhân được phân thành bốn nhóm BMI khác nhau (kg/m2) theo tiêu chí của Tổ chức Y tế Thế giới: nhẹ cân (<18.5, N=155); cân nặng bình thường (18.5–24.9, N=2549); thừa cân (25.0–29.9, N=591); và béo phì (≥30.0, N=185). Trong đó, các quy trình kích thích buồng trứng, IVF, sinh thiết phôi (PGT-A) và chuyển phôi được tiến hành tương tự giữa 4 nhóm. Kết cục nghiên cứu bao gồm tỷ lệ có thai, tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ thai sinh hóa, tỷ lệ sẩy thai và tỷ lệ trẻ sinh sống.
Nghiên cứu cho thấy có sự gia tăng đáng kể về tổng liều Gonadotropins được sử dụng ở các nhóm thừa cân và béo phì. Tỷ lệ thụ tinh, số lượng phôi được sinh thiết vào ngày thứ 5 hoặc ngày thứ 6, số lượng phôi lệch bội, số phôi nguyên bội là tương đương giữa các nhóm. Mặc dù phụ nữ béo phì và thừa cân có tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ có thai thấp hơn, nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê giữa bốn nhóm BMI. Tuy nhiên, tỷ lệ sẩy thai cao hơn có ý nghĩa thống kê trong nhóm béo phì, điều này cũng góp phần làm giảm đáng kể tỷ lệ trẻ sinh sống ở nhóm này. Phân tích hồi quy logistic cho thấy yếu tố béo phì là một yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ trẻ sinh sống.
Nghiên cứu này bổ sung thêm bằng chứng rằng phụ nữ béo phì không làm tăng nguy cơ gây ra phôi lệch bội, do tỷ lệ phôi lệch bội và nguyên bội là tương đương giữa các nhóm. Tỷ lệ sẩy thai ở phụ nữ béo phì cao không phải do béo phì làm tăng tỷ lệ phôi bất thường. Hơn thế nữa, một nghiên cứu khác của tác giả Provost MP và cộng sự (2008-2010) đã chỉ ra rằng, ngay cả trong các trường hợp xin noãn, có giới hạn tuổi của người cho noãn, tỷ lệ sẩy thai cũng gia tăng đáng kể ở những phụ nữ béo phì. Điều này cho thấy, yếu tố béo phì có thể gây ảnh hưởng đến tử cung/ nhau thai, dẫn đến ảnh hưởng xấu tới sự phát triển của phôi trong tử cung. Cơ chế này phần nào có thể giải thích tại sao tỷ lệ sẩy thai lâm sàng cao hơn tỷ lệ thai sinh hóa được thấy ở nhóm bệnh nhân béo phì của nghiên cứu trên. Kết quả từ nghiên cứu này là cơ sở để các bác sĩ khuyến khích bệnh nhân của mình nên điều chỉnh cân nặng trước khi tiến hành chuyển phôi trữ, góp phần giảm tỷ lệ sẩy thai sau này, giúp bệnh nhân có kết quả điều trị tốt hơn.
Tài liệu tham khảo:
Cozzolino M, García-Velasco JA, Meseguer M, Pellicer A, Bellver J. Female obesity increases the risk of miscarriage of euploid embryos. Fertil Steril. 2021 Jun;115(6):1495-1502. doi: 10.1016/j.fertnstert.2020.09.139. Epub 2020 Nov 30. PMID: 33267960.
Hiện nay, tỷ lệ béo phì thừa cân trên toàn thế giới gia tăng rất nhanh. Tình trạng béo phì thừa cân rất nguy hiểm, vì nó không những gây ra mà còn làm trầm trọng thêm một số bệnh lý như: tim mạch, đái tháo đường, ung thư, viêm xương khớp, … dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cao. Trong lĩnh vực sinh sản, phụ nữ béo phì có liên quan đến giảm tỷ lệ thụ thai. Hơn thế nữa, khi mang thai, nguy cơ sẩy thai ba tháng đầu, sẩy thai liên tiếp tăng lên ở những phụ nữ bị béo phì so với những phụ nữ có cân nặng bình thường. Mặt khác, khi xét về nguyên nhân gây sẩy thai trong ba tháng đầu, bất thường về nhiễm sắc thể phôi là nguyên nhân hàng đầu. Vậy khi chuyển những phôi nguyên bội, phụ nữ béo phì thừa cân có bị tăng nguy cơ sẩy thai hay không?
Một nghiên cứu hồi cứu đa trung tâm được thực hiện tại viện nghiên cứu Instituto Valenciano de invtilidad với 3480 chu kỳ điều trị, từ tháng 1 năm 2016 đến tháng 4 năm 2019. Các bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu không có giới hạn về độ tuổi, thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, được chỉ định sinh thiết di truyền tiền làm tổ phôi sàng lọc lệch bội (PGT-A) và trong đó có ít nhất một phôi nguyên bội, chỉ số khối cơ thể (BMI) được ghi nhận khi bệnh nhân bắt đầu kích thích buồng trứng. Để so sánh, các bệnh nhân được phân thành bốn nhóm BMI khác nhau (kg/m2) theo tiêu chí của Tổ chức Y tế Thế giới: nhẹ cân (<18.5, N=155); cân nặng bình thường (18.5–24.9, N=2549); thừa cân (25.0–29.9, N=591); và béo phì (≥30.0, N=185). Trong đó, các quy trình kích thích buồng trứng, IVF, sinh thiết phôi (PGT-A) và chuyển phôi được tiến hành tương tự giữa 4 nhóm. Kết cục nghiên cứu bao gồm tỷ lệ có thai, tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ thai sinh hóa, tỷ lệ sẩy thai và tỷ lệ trẻ sinh sống.
Hình 1: Kết quả thai lâm sàng và tỷ lệ sẩy thai giữa 4 nhóm BMI
Nghiên cứu cho thấy có sự gia tăng đáng kể về tổng liều Gonadotropins được sử dụng ở các nhóm thừa cân và béo phì. Tỷ lệ thụ tinh, số lượng phôi được sinh thiết vào ngày thứ 5 hoặc ngày thứ 6, số lượng phôi lệch bội, số phôi nguyên bội là tương đương giữa các nhóm. Mặc dù phụ nữ béo phì và thừa cân có tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ có thai thấp hơn, nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê giữa bốn nhóm BMI. Tuy nhiên, tỷ lệ sẩy thai cao hơn có ý nghĩa thống kê trong nhóm béo phì, điều này cũng góp phần làm giảm đáng kể tỷ lệ trẻ sinh sống ở nhóm này. Phân tích hồi quy logistic cho thấy yếu tố béo phì là một yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ trẻ sinh sống.
Nghiên cứu này bổ sung thêm bằng chứng rằng phụ nữ béo phì không làm tăng nguy cơ gây ra phôi lệch bội, do tỷ lệ phôi lệch bội và nguyên bội là tương đương giữa các nhóm. Tỷ lệ sẩy thai ở phụ nữ béo phì cao không phải do béo phì làm tăng tỷ lệ phôi bất thường. Hơn thế nữa, một nghiên cứu khác của tác giả Provost MP và cộng sự (2008-2010) đã chỉ ra rằng, ngay cả trong các trường hợp xin noãn, có giới hạn tuổi của người cho noãn, tỷ lệ sẩy thai cũng gia tăng đáng kể ở những phụ nữ béo phì. Điều này cho thấy, yếu tố béo phì có thể gây ảnh hưởng đến tử cung/ nhau thai, dẫn đến ảnh hưởng xấu tới sự phát triển của phôi trong tử cung. Cơ chế này phần nào có thể giải thích tại sao tỷ lệ sẩy thai lâm sàng cao hơn tỷ lệ thai sinh hóa được thấy ở nhóm bệnh nhân béo phì của nghiên cứu trên. Kết quả từ nghiên cứu này là cơ sở để các bác sĩ khuyến khích bệnh nhân của mình nên điều chỉnh cân nặng trước khi tiến hành chuyển phôi trữ, góp phần giảm tỷ lệ sẩy thai sau này, giúp bệnh nhân có kết quả điều trị tốt hơn.
Tài liệu tham khảo:
Cozzolino M, García-Velasco JA, Meseguer M, Pellicer A, Bellver J. Female obesity increases the risk of miscarriage of euploid embryos. Fertil Steril. 2021 Jun;115(6):1495-1502. doi: 10.1016/j.fertnstert.2020.09.139. Epub 2020 Nov 30. PMID: 33267960.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Ảnh hưởng của hình dạng tinh trùng lên kết cục mang thai và trẻ sinh ra từ IVF và ICSI: một nghiên cứu bệnh – chứng ghép cặp - Ngày đăng: 20-09-2021
Kết quả ICSI của tinh trùng tươi hoặc trữ lạnh từ micro-TESE ở bệnh nhân vô tinh không do tắc - Ngày đăng: 20-09-2021
Sử dụng machine learning để tối ứu hoá việc chọn ngày trigger nhằm cải thiện kết cục điều trị hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 16-09-2021
Rào cản và các yếu tố hỗ trợ trong việc quản lý cân nặng ở phụ nữ thừa cân – béo phì có hội chứng buồng trứng đa nang - Ngày đăng: 16-09-2021
Kết quả thai trên những bệnh nhân là người lành mang chuyển đoạn thuận nghịch trước và sau khi thực hiện tầm soát di truyền tiền làm tổ - Ngày đăng: 16-09-2021
Chuyển phôi trữ ngay lập tức hay trì hoãn chuyển phôi trữ ở bệnh nhân thất bại trong chu kỳ chuyển phôi tươi: một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên đa trung tâm - Ngày đăng: 16-09-2021
Định lượng DNA ti thể không xâm lấn ở phôi ngày 3 tiên lượng khả năng phát triển phôi nang: một nghiên cứu tiến cứu mù đôi đa trung tâm - Ngày đăng: 16-09-2021
Các thông số động học hình thái làm tiêu chí bổ trợ để lựa chọn phôi nang trong hệ thống nuôi cấy time – lapse - Ngày đăng: 16-09-2021
DNA ti thể trong môi trường nuôi cấy của phôi tươi so với phôi trữ ở bệnh nhân PCOS điều trị thụ tinh trong ống nghiệm: Một dấu ấn tiên lượng thai lâm sàng - Ngày đăng: 16-09-2021
Melatonin làm giảm stress oxi hóa và quá trình apoptosis do sốc nhiệt ở tinh trùng người - Ngày đăng: 16-09-2021
Són tiểu sau khi sinh ngả âm đạo hoặc mổ lấy thai - Ngày đăng: 16-09-2021
Tác động của lạc nội mạc tử cung đến chất lượng cuộc sống và tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm - Ngày đăng: 16-09-2021
HOẠT ĐỘNG
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK