Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Friday 03-01-2025 2:15am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CN Lê Ngọc Quế Anh – IVF Tâm Anh
 
Phôi nhiễm khuẩn có thể dẫn đến nguy cơ hủy chu kỳ cao hơn và tỷ lệ phôi hữu dụng thấp hơn. Khi được chuyển, phôi có thể mang vi sinh vật vào môi trường trong tử cung làm thay đổi hệ vi sinh vật có sẵn và ảnh hưởng đến việc làm tổ và sự sống của phôi thai. Điều này có thể làm tăng chi phí cho bệnh nhân và gây nên những tổn thương tâm lý. Hầu hết phòng thí nghiệm hiện nay sử dụng môi trường nuôi cấy chứa gentamicin (0,01g/L) để giảm thiểu nguy cơ phát triển của vi sinh vật. Tuy nhiên đôi khi noãn và phôi vẫn bị nhiễm bởi vi sinh vật trong đĩa nuôi cấy. Tỷ lệ phôi bị nhiễm trong IVF từ 0,35% đến 0,69%.
Nghiên cứu nhằm mục đích chỉ ra tỷ lệ và nguyên nhân vi vật gây nhiễm môi trường nuôi cấy phôi trong công nghệ hỗ trợ sinh sản và cũng như sự ảnh hưởng đến sự phát triển phôi, tỷ lệ mang thai và kết quả sơ sinh. Cung cấp cái nhìn tổng quan cho chuyên viên phôi học về cách quản lý và tránh nhiễm vi sinh vật trong các hoạt động hàng ngày trong phòng thí nghiệm hỗ trợ sinh sản.
 
Phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu được thực hiện tại Trung tâm Y học Sinh sản, Bệnh viện Đại học Y khoa Quảng Châu, từ ngày 1 tháng 1 năm 2018 đến ngày 31 tháng 12 năm 2021. Tiêu chí nhận bao gồm tất cả chu kỳ IVF (gồm phôi bị nhiễm và không bị nhiễm). Tiêu chí loại trừ là các chu kỳ ICSI, chu kỳ chọc hút noãn bị hủy, chu kỳ không thu nhận được noãn. Nghiên cứu bao gồm 39 trường hợp (0,12%) có đĩa nuôi cấy bị nhiễm vi sinh vật trong tổng số 21207 chu kỳ. Thời gian gây nhiễm của vi sinh vật chỉ được ghi nhận trong 22 trên 39 trường hợp và được sử dụng để xác định ảnh hưởng đến kết quả. Dữ liệu cơ bản của các chu kỳ được thu thập bao gồm tuổi, BMI, loại vô sinh, số năm vô sinh, yếu tố vô sinh của phụ nữ, kết quả phòng thí nghiệm (số noãn thu thập, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ phân cắt, tỷ lệ phôi sử dụng được, tỷ lệ hình thành phôi nang), kết quả mang thai (tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ hCG dương tính, tỷ lệ mang thai lâm sàng, tỷ lệ thai ngoài tử cung, tỷ lệ sảy thai, tỷ lệ sinh sống) và kết quả sơ sinh (chiều cao, cân nặng, giới tính thai nhi).
Trong quá trình nuôi cấy phôi, các đĩa nuôi cấy được kiểm tra vào các ngày 1,2,3 và 5 để quan sát sự phát triển của phôi và kiểm tra đĩa cấy có nhiễm vi sinh vật hay không. Nếu phát hiện vi sinh vật, đĩa nuôi cấy sẽ được xử lý. Phôi được chuyển ra khỏi các giọt nuôi cấy bị nhiễm. Đặt phôi vào một đĩa bốn giếng chứa dung dịch ống dẫn trứng đã cân bằng trước với gentamicin ở nhiệt độ 37°C và 5% CO2. Rửa phôi với môi trường chứa 10% huyết thanh. Chuyển phôi không bị thoái hóa vào đĩa nuôi cấy mới để nuôi cấy giọt đơn. Vào ngày thứ 3 hoặc thứ 5, nếu sau khi rửa, không thấy vi khuẩn nào dưới kính hiển vi, phôi có thể được đông lạnh hoặc chuyển phôi theo chỉ dẫn của bác sĩ. Phôi bị nhiễm được kiểm tra và xác định vi khuẩn bằng cách nuôi cấy dung dịch nuôi cấy lên các đĩa thạch, sau đó sử dụng hệ thống Bruker Microflex MS để nhận dạng vi khuẩn.
 
Kết quả
Tỷ lệ phôi bị nhiễm trung bình là 0,12%. Không có sự khác biệt đáng kể về tuổi tác, BMI, loại vô sinh, thời gian vô sinh và phác đồ kích thích giữa các nhóm. Có 39 trường hợp phát hiện vi khuẩn, trong đó Escherichia coli (E. coli) chiếm 51,28% (20 trường hợp) và Streptococcus agalactiae (S. agalactiae) chiếm 17,95% (7 trường hợp). Tỷ lệ thụ tinh của các phôi bị nhiễm khuẩn dao động từ 18,18% (Klebsiella pneumoniae) đến 94,79% (S. agalactiae). Tỷ lệ phôi phân chia của các phôi bị nhiễm khuẩn dao động từ 9,09% (Enterobacter cloacae) đến 98,90% (S. agalactiae). Tỷ lệ phôi hữu dụng ngày 3 dao động từ 0% (Klebsiella pneumoniae, Enterobacter cloacae) đến 63,33% (S. agalactiae). Tỷ lệ hình thành phôi nang dao động từ 3,23% (Proteus mirabilis) đến 64,29% (Streptococcus mitis). E. coli được phát hiện thường gây nhiễm vào ngày 1, trong khi S. agalactiae gây nhiễm vào ngày 3 và ngày 5. Có 20 trường hợp nhiễm E. coli, nhưng chỉ có 5 bệnh nhân có phôi hữu dụng để chuyển. Hai bệnh nhân thực hiện chuyển phôi tươi, ba bệnh nhân thực hiện chuyển phôi đông lạnh, và hai trong số họ thực hiện chuyển phôi đông lạnh hai lần. Trong tất cả 7 trường hợp nhiễm Streptococcus agalactiae đều có phôi sử dụng được. Trong số đó, bốn bệnh nhân thực hiện chuyển phôi tươi, bốn bệnh nhân thực hiện chuyển phôi đông lạnh, bao gồm một trường hợp sau khi thất bại chuyển phôi tươi, và một bệnh nhân thực hiện chuyển phôi đông lạnh hai lần. Ba trường hợp sảy thai sớm đã xảy ra ở phôi bị nhiễm E. coli. Các phôi bị nhiễm S. agalactiae dẫn đến một trường hợp sảy thai muộn ở tuần thứ 39 của thai kỳ. Sau khi tiến hành xử lí phôi nhiễm đã có 6 bé trai khỏe mạnh được sinh ra.
 
Thảo luận
Kết quả nghiên cứu cho thấy khi chuyển phôi bị nhiễm E. coli tăng đáng kể nguy cơ sảy thai sớm. Điều này có thể là do vi khuẩn còn lại trong màng zona pellucida – ZP của phôi sau khi rửa, dẫn đến viêm nhiễm tử cung và vùng chậu, thay đổi hệ vi sinh sẵn có và ảnh hưởng đến việc làm tổ và sống sót trong thai kỳ. Nhưng không phải tất cả các phôi bị nhiễm vi khuẩn đều dẫn đến sảy thai, có thể do khả năng bám dính vào màng ZP phôi của các loại vi khuẩn khác nhau. Ngay cả khi không thấy vi khuẩn sau khi rửa, cần phải cẩn trọng hơn nếu sử dụng phôi bị nhiễm E. coli để chuyển phôi.
E. coli là vi khuẩn gram âm, trong khi S. agalactiae là vi khuẩn gram dương. E. coli làm giảm độ di động của tinh trùng và ảnh hưởng đến phản ứng acrosome, do đó giảm khả năng thụ tinh. Endotoxin do vi khuẩn gram âm sản xuất có ảnh hưởng lớn đến quá trình thụ tinh và phát triển phôi trong IVF-ET. Các yếu tố này có thể khiến E. coli ảnh hưởng xấu đến kết quả IVF. S. agalactiae không sản xuất endotoxin gây hại. Ngoài ra, S. agalactiae có thể tiết ra hyaluronidase ngoại bào cao, giúp tăng cường hình thành phôi nang và giảm apoptosis của khối tế bào bên trong. Kết quả cũng cho thấy E. coli thường được phát hiện vào ngày 1, trong khi S. agalactiae thường được phát hiện vào Ngày 3, có thể do sự nhiễm diễn ra từ trước nhưng không được phát hiện cho đến khi số lượng vi khuẩn tăng đủ để thấy.
Khi phát hiện phôi bị nhiễm khuẩn, phôi có thể được khử nhiễm nhiều lần bằng kháng sinh như penicillin, streptomycin và gentamicin sulphate, sau đó rửa bằng môi trường nuôi cấy. Tất cả các trường hợp phôi bị nhiễm đều xảy ra trong chu kỳ IVF cổ điển và không có trường hợp nhiễm khuẩn nào được quan sát thấy khi áp dụng quy trình ICSI, cho thấy nguy cơ nhiễm khuẩn giảm đáng kể trong các đĩa nuôi cấy ICSI. Việc chọn lọc một tinh trùng để tiêm cũng có thể giảm nguy cơ nhiễm. Tuy nhiên, nguy cơ nhiễm khuẩn giảm trong quy trình ICSI cũng có thể do việc loại bỏ các tế bào cumulus và corona, sử dụng hyaluronidase hoặc các bước rửa kỹ lưỡng trong quy trình tách noãn.
Kết quả cho thấy chuyển phôi nhiễm không ảnh hưởng đến chiều cao, cân nặng trẻ sơ sinh, nhưng cần nghiên cứu thêm về ảnh hưởng lâu dài. Hạn chế của nghiên cứu là cỡ mẫu nhỏ và chỉ từ một trung tâm.
 
Kết luận
E. coli và S. agalactiae là những vi khuẩn gây nhiễm phôi phổ biến nhất. Phần lớn các vi khuẩn này có thể làm giảm đáng kể tỷ lệ thụ tinh. Việc chuyển phôi sau khi rửa và tiếp tục nuôi cấy không có ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả sơ sinh, nhưng có nguy cơ tăng tỷ lệ sảy thai sớm do nhiễm E. coli.
 
Nguồn: He Y, Mao Y, Chen Y, Tang L, Hou H, Sun C, Shang Y, Tan NN, Li L. Effects of Embryo Microbial Contamination on ART and Neonatal Outcomes. Infect Drug Resist. 2024 Sep 23;17:4137-4148. doi: 10.2147/IDR.S478594. PMID: 39347493; PMCID: PMC11430217.

Các tin khác cùng chuyên mục:
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

Năm 2020

Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK