Tin tức
on Monday 30-12-2024 9:35am
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Trương Trần Minh Anh – IVF Tâm Anh
Tổng quan
Hội chứng buồng trứng đa nang (Polycystic ovary syndrome - PCOS) là nguyên nhân chính gây vô sinh không rụng trứng ở phụ nữ, chiếm khoảng 80% các trường hợp. Với số lượng người vô sinh ngày càng tăng, áp dụng công nghệ hỗ trợ sinh sản, bao gồm chu kỳ chuyển phôi tươi (ET) hoặc chuyển phôi trữ (FET), được xem như là một hướng điều trị phổ biến cho người vô sinh. So với phụ nữ có chu kỳ rụng trứng bình thường, bệnh nhân PCOS có đáp ứng buồng trứng mạnh hơn và mức estradiol cao bất thường do kích thích buồng trứng có thể ảnh hưởng đến việc làm tổ của phôi, sự phát triển nhau thai và cung cấp máu, dẫn đến các kết quả bất lợi. FET có thể giảm thiểu trạng thái nội tiết bất thường này sau kích thích buồng trứng và cung cấp môi trường tử cung thuận lợi hơn cho việc làm tổ của phôi và sự hình thành nhau thai. Hiện nay vẫn chưa rõ liệu có sự khác biệt nào trong kết quả chu sinh giữa phụ nữ PCOS thực hiện chu kỳ ET và FET. Mục tiêu nghiên cứu này là phân tích tác động của ET và FET đối với kết quả chu sinh ở những bệnh nhân mắc PCOS.
Vật liệu và phương pháp
Phân tích hồi cứu những bệnh nhân thực hiện thụ tinh ống nghiệm (IVF) và chuyển phôi tại Trung tâm Y học sinh sản của Bệnh viện trực thuộc Đại học Y Quảng Đông từ tháng 2 năm 2013 đến tháng 3 năm 2021. Phân loại bệnh nhân thành các nhóm ET-PCOS (nhóm A, n=104), nhóm ET-không PCOS (nhóm B, n=212), nhóm FET-PCOS (nhóm C, n=102) và nhóm FET-không PCOS (nhóm D, n=148). Các dữ liệu chung, chỉ số xét nghiệm và kết quả thai kỳ của các bệnh nhân được phân tích thống kê, các kết quả chu sinh và yếu tố liên quan giữa các nhóm đã được so sánh và phân tích.
Kết quả
Mức E2 vào ngày xét nghiệm hCG ở nhóm ET thấp hơn nhóm FET. Tỉ lệ sinh tự nhiên của nhóm D thấp hơn nhóm A và B, tỉ lệ mổ lấy thai cao hơn nhóm A và nhóm B; tỉ lệ mang thai lâm sàng của nhóm A cao hơn nhóm B và nhóm D đáng kể có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Không có sự khác biệt có ý nghĩa về tổng tỉ lệ phá thai, phá thai sớm hoặc phá thai muộn giữa các nhóm (P>0,05). Không có sự khác biệt có ý nghĩa về tuổi thai, giới tính trẻ sơ sinh hoặc cân nặng trẻ sơ sinh giữa các nhóm (P>0,05). Tỉ lệ nhau tiền đạo ở nhóm B thấp hơn đáng kể so với nhóm D (P<0,05). Tỉ lệ thai nhi bị suy yếu ở nhóm B thấp hơn đáng kể so với nhóm C và D, tỉ lệ vàng da sơ sinh ở nhóm D cao hơn đáng kể so với nhóm A và B (P<0,05). Trong phân tích đa biến, số lượng phôi chất lượng cao là các yếu tố độc lập ảnh hưởng đến thai kỳ lâm sàng, phương pháp chuyển phôi là một yếu tố độc lập ảnh hưởng đến tình trạng thai nhi bị suy yếu và vàng da sơ sinh.
Bàn luận
Theo các báo cáo quốc tế, tỉ lệ sẩy thai ở các chu kỳ chuyển phôi tươi lần lượt là 21,8% (2008), 21,1% (2009) và 20,2% (2010), trong khi tỉ lệ sẩy thai sớm ở FET cao hơn: 28,9% (2008), 25,4% (2009), 25,2% (2010). Tương tự, phát hiện này cũng được xác nhận trong bài nghiên cứu, tỉ lệ sẩy thai sớm và tổng sẩy thai ở bệnh nhân FET cao hơn so với ET. Nguyên nhân tiềm ẩn có thể là do quá trình đông và rã đông phôi có thể gây ra tổn thương gen, tăng các đoạn DNA bị phân mảnh, và đột biến ti thể, làm giảm khả năng phát triển của phôi, dẫn đến tăng tỉ lệ sẩy thai. Ngoài ra, phụ nữ PCOS có tỉ lệ mang thai lâm sàng cao hơn phụ nữ vô sinh do tắc ống dẫn trứng, có thể do họ có nhiều nang cơ bản hơn, tạo ra nhiều trứng hơn và nuôi cấy được nhiều phôi chất lượng cao hơn khi kích thích buồng trứng. Tuy nhiên, FET có liên quan đến nguy cơ tăng nhau tiền đạo, nhau cài răng lược, và vị trí nhau thai thấp. Phụ nữ chuyển phôi đông lạnh rã đông cũng có xu hướng sinh mổ nhiều hơn, có thể do tâm lý lo lắng và áp lực khi trải qua các chu kỳ điều trị kéo dài. Mặc dù công nghệ đông rã phôi đã cải thiện, tổn thương do đông lạnh vẫn không thể tránh khỏi, và ảnh hưởng lâu dài của FET đến con cái vẫn cần nghiên cứu thêm. Bệnh nhân PCOS trẻ không có nguy cơ mắc OHSS có tỉ lệ mang thai lâm sàng cao với các chu kỳ chuyển phôi tươi. Bản thân bệnh PCOS không ảnh hưởng đáng kể đến kết quả chu sinh của người mẹ hoặc trẻ sơ sinh đơn thai. Các kết quả cho thấy cả FET và ET đều có ưu và nhược điểm, và cần quan sát thêm để đưa ra kết luận chắc chắn.
Nguồn: Li, H., Xu, L., Niu, Y., Zhu, X., Gao, X., & Ma, T. (2024). The effects of fresh embryo transfer and frozen-thawed embryo transfer on the perinatal outcomes of single fetuses from mothers with PCOS. PloS one, 19(10), e0312003.
Tổng quan
Hội chứng buồng trứng đa nang (Polycystic ovary syndrome - PCOS) là nguyên nhân chính gây vô sinh không rụng trứng ở phụ nữ, chiếm khoảng 80% các trường hợp. Với số lượng người vô sinh ngày càng tăng, áp dụng công nghệ hỗ trợ sinh sản, bao gồm chu kỳ chuyển phôi tươi (ET) hoặc chuyển phôi trữ (FET), được xem như là một hướng điều trị phổ biến cho người vô sinh. So với phụ nữ có chu kỳ rụng trứng bình thường, bệnh nhân PCOS có đáp ứng buồng trứng mạnh hơn và mức estradiol cao bất thường do kích thích buồng trứng có thể ảnh hưởng đến việc làm tổ của phôi, sự phát triển nhau thai và cung cấp máu, dẫn đến các kết quả bất lợi. FET có thể giảm thiểu trạng thái nội tiết bất thường này sau kích thích buồng trứng và cung cấp môi trường tử cung thuận lợi hơn cho việc làm tổ của phôi và sự hình thành nhau thai. Hiện nay vẫn chưa rõ liệu có sự khác biệt nào trong kết quả chu sinh giữa phụ nữ PCOS thực hiện chu kỳ ET và FET. Mục tiêu nghiên cứu này là phân tích tác động của ET và FET đối với kết quả chu sinh ở những bệnh nhân mắc PCOS.
Vật liệu và phương pháp
Phân tích hồi cứu những bệnh nhân thực hiện thụ tinh ống nghiệm (IVF) và chuyển phôi tại Trung tâm Y học sinh sản của Bệnh viện trực thuộc Đại học Y Quảng Đông từ tháng 2 năm 2013 đến tháng 3 năm 2021. Phân loại bệnh nhân thành các nhóm ET-PCOS (nhóm A, n=104), nhóm ET-không PCOS (nhóm B, n=212), nhóm FET-PCOS (nhóm C, n=102) và nhóm FET-không PCOS (nhóm D, n=148). Các dữ liệu chung, chỉ số xét nghiệm và kết quả thai kỳ của các bệnh nhân được phân tích thống kê, các kết quả chu sinh và yếu tố liên quan giữa các nhóm đã được so sánh và phân tích.
Kết quả
Mức E2 vào ngày xét nghiệm hCG ở nhóm ET thấp hơn nhóm FET. Tỉ lệ sinh tự nhiên của nhóm D thấp hơn nhóm A và B, tỉ lệ mổ lấy thai cao hơn nhóm A và nhóm B; tỉ lệ mang thai lâm sàng của nhóm A cao hơn nhóm B và nhóm D đáng kể có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Không có sự khác biệt có ý nghĩa về tổng tỉ lệ phá thai, phá thai sớm hoặc phá thai muộn giữa các nhóm (P>0,05). Không có sự khác biệt có ý nghĩa về tuổi thai, giới tính trẻ sơ sinh hoặc cân nặng trẻ sơ sinh giữa các nhóm (P>0,05). Tỉ lệ nhau tiền đạo ở nhóm B thấp hơn đáng kể so với nhóm D (P<0,05). Tỉ lệ thai nhi bị suy yếu ở nhóm B thấp hơn đáng kể so với nhóm C và D, tỉ lệ vàng da sơ sinh ở nhóm D cao hơn đáng kể so với nhóm A và B (P<0,05). Trong phân tích đa biến, số lượng phôi chất lượng cao là các yếu tố độc lập ảnh hưởng đến thai kỳ lâm sàng, phương pháp chuyển phôi là một yếu tố độc lập ảnh hưởng đến tình trạng thai nhi bị suy yếu và vàng da sơ sinh.
Bàn luận
Theo các báo cáo quốc tế, tỉ lệ sẩy thai ở các chu kỳ chuyển phôi tươi lần lượt là 21,8% (2008), 21,1% (2009) và 20,2% (2010), trong khi tỉ lệ sẩy thai sớm ở FET cao hơn: 28,9% (2008), 25,4% (2009), 25,2% (2010). Tương tự, phát hiện này cũng được xác nhận trong bài nghiên cứu, tỉ lệ sẩy thai sớm và tổng sẩy thai ở bệnh nhân FET cao hơn so với ET. Nguyên nhân tiềm ẩn có thể là do quá trình đông và rã đông phôi có thể gây ra tổn thương gen, tăng các đoạn DNA bị phân mảnh, và đột biến ti thể, làm giảm khả năng phát triển của phôi, dẫn đến tăng tỉ lệ sẩy thai. Ngoài ra, phụ nữ PCOS có tỉ lệ mang thai lâm sàng cao hơn phụ nữ vô sinh do tắc ống dẫn trứng, có thể do họ có nhiều nang cơ bản hơn, tạo ra nhiều trứng hơn và nuôi cấy được nhiều phôi chất lượng cao hơn khi kích thích buồng trứng. Tuy nhiên, FET có liên quan đến nguy cơ tăng nhau tiền đạo, nhau cài răng lược, và vị trí nhau thai thấp. Phụ nữ chuyển phôi đông lạnh rã đông cũng có xu hướng sinh mổ nhiều hơn, có thể do tâm lý lo lắng và áp lực khi trải qua các chu kỳ điều trị kéo dài. Mặc dù công nghệ đông rã phôi đã cải thiện, tổn thương do đông lạnh vẫn không thể tránh khỏi, và ảnh hưởng lâu dài của FET đến con cái vẫn cần nghiên cứu thêm. Bệnh nhân PCOS trẻ không có nguy cơ mắc OHSS có tỉ lệ mang thai lâm sàng cao với các chu kỳ chuyển phôi tươi. Bản thân bệnh PCOS không ảnh hưởng đáng kể đến kết quả chu sinh của người mẹ hoặc trẻ sơ sinh đơn thai. Các kết quả cho thấy cả FET và ET đều có ưu và nhược điểm, và cần quan sát thêm để đưa ra kết luận chắc chắn.
Nguồn: Li, H., Xu, L., Niu, Y., Zhu, X., Gao, X., & Ma, T. (2024). The effects of fresh embryo transfer and frozen-thawed embryo transfer on the perinatal outcomes of single fetuses from mothers with PCOS. PloS one, 19(10), e0312003.
Các tin khác cùng chuyên mục:










THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
New World Saigon hotel, thứ bảy 14 tháng 06 năm 2025 (12:00 - 16:00)
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025
Năm 2020
Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK