Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Saturday 28-12-2024 6:27am
Viết bởi: Khoa Pham
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Nguyễn Hoàng Bảo Ngân – IVF Tâm Anh
 
Bơm tinh trùng vào buồng tử cung (intrauterine insemination - IUI) là phương pháp điều trị phổ biến cho các cặp vợ chồng vô sinh. Thành công của IUI chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, trong đó kích thước nang noãn phản ánh sự trưởng thành của noãn, và thời điểm kích hoạt hCG (human chorionic gonadotropin) dựa trên kích thước này ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Tuy nhiên, chưa có sự đồng thuận về kích thước nang noãn tối ưu trong IUI, đặc biệt khi sử dụng các thuốc kích thích rụng trứng như clomiphene citrate (CC) hoặc gonadotropin. Tuy nhiên, nghiên cứu lâm sàng tập trung vào tác động của kích thước nang noãn đến kết quả thai IUI sử dụng letrozole còn hạn chế. Letrozole là  chất ức chế aromatase không steroid, gây rụng trứng bằng cách giảm estrogen (E2) và tăng tiết gonadotropin, hiệu quả như CC trong điều trị như PCOS, vô sinh không rõ nguyên nhân với nguy cơ sinh đôi thấp.
Nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của kích thước nang noãn đối với kết quả thai trong chu kỳ IUI đầu tiên sử dụng letrozole.
 
Phương pháp
Đây là nghiên cứu hồi cứu từ tháng 1/2017 đến tháng 10/2022 trên 763 phụ nữ đã thực hiện chu kỳ IUI đầu tiên sau kích thích buồng trứng bằng letrozole, đáp ứng các tiêu chí như ít nhất một bên vòi trứng thông, chồng có thông số tinh dịch đồ bình thường. Dựa trên đường kính nang noãn vượt trội đo được vào ngày kích hoạt hCG, bệnh nhân được phân thành sáu nhóm gồm ≤18 mm, 18,1–19,0 mm, 19,1–20,0 mm, 20,1–21,0 mm, 21,1–22,0 mm và >22 mm. Kết cục chính là tỷ lệ trẻ sinh sống. Kết cục phụ là tỷ lệ thai và tỷ lê thai lâm sàng.
 
Kết quả
Kích thước nang noãn và tỷ lệ thai
Nghiên cứu cho thấy có khác biệt mang ý nghĩa thống kê về tỷ lệ thai, tỷ lệ thai lâm sàng, và tỷ lệ trẻ sinh sống giữa sáu nhóm kích thước nang noãn (P<0,05). Tỷ lệ trẻ sinh sống của nhóm 20,1–21,0 mm cao nhất (21,3%), nhóm ≤18 mm thấp nhất (9,57%).
Sau khi hiệu chỉnh các yếu tố gây nhiễu, nhóm nang 19,1–20,0 mm và 20,1–21,0 mm ghi nhận tỷ lệ trẻ sinh sống cao hơn lần lượt 2,45 và 2,6 lần so với nhóm nang ≤18 mm (OR= 2,45; KTC 95%, 1,30–4,61 và OR= 2,60; KTC 95%, 1,31–5,14). Tương tự, các nhóm này cũng có mối tương quan đến tỷ lệ thai (OR= 2,57; KTC 95%, 1,45–4,56 và OR= 2,20; KTC 95%, 1,17–4,16) và tỷ lệ thai lâm sàng tăng (OR= 2,30; KTC 95%, 1,29–4,11 và OR= 2,18; KTC 95%, 1,16–4,13) so với nhóm nang ≤18 mm. Ngoài ra, nhóm nang kích thước 21,1–22,0 mm cũng có mối tương quan đến tỷ lệ thai và thai lâm sàng cao hơn, nhưng không cải thiện về tỷ lệ trẻ sinh sống. Đáng chú ý, nang >22 mm không mang lại lợi ích tương tự về các kết quả thai kỳ.
Nồng độ E2 và tỷ lệ thai lâm sàng
Khi nồng độ E2 <200 pg/mL, có khác biệt về tỷ lệ thai lâm sàng, đặc biệt nhóm 20,1 - 21.0 mm có tỷ lệ cao nhất (22,5%). Mặc khác, E2 >200 pg/mL, không có khác biệt đáng kể về tỷ lệ thai lâm sàng giữa sáu nhóm.
 
Bàn luận
Các nghiên cứu trước đây về kích thước nang trội trong IUI cho thấy kết quả không nhất quán, với kích thước tối ưu dao động từ 15–22 mm. Tương tự như kết quả trong nghiên cứu này, các nghiên cứu khác cũng cho thấy nang quá lớn hoặc quá nhỏ đều giảm khả năng mang thai. Ngoài ra, trong các chu kỳ letrozole, nồng độ E2 thường thấp trong giai đoạn nang muộn do hoạt động aromatase chưa phục hồi. Khi E2 <200 pg/mL, kích thước nang có ảnh hưởng đến kết quả thai, nhưng E2 >200 pg/mL thì không có sự khác biệt. Nồng độ E2 cao phục hồi aromatase tế bào hạt, làm giảm ảnh hưởng kích thước nang đến thành công IUI. Vì vậy, kích thước nang dự báo mang thai hiệu quả hơn khi E2 <200 pg/ml vào ngày tiêm hCG, nhưng cần thêm nghiên cứu để làm rõ tác động của letrozole ở mức E2 thấp.
Điểm mạnh của nghiên cứu là tập trung vào các bệnh nhân vô sinh không rõ nguyên nhân hoặc không rụng trứng, chỉ sử dụng letrozole trong chu kỳ IUI đầu tiên, và đánh giá kết quả dựa trên tỷ lệ trẻ sinh sống. Tuy nhiên, hạn chế của nghiên cứu bao gồm thiết kế hồi cứu, cỡ mẫu nhỏ và chỉ được thực hiện tại một trung tâm, do đó kết quả có thể chưa đại diện đầy đủ cho các quần thể khác.
 
Kết luận
Kích thước nang noãn tối ưu từ 19,1–21,0 mm giúp tăng tỷ lệ thai trong chu kỳ letrozole-IUI đầu tiên, đặc biệt khi estrogen thấp (< 200 pg/ml). Bác sĩ có thể dựa vào kích thước nang để quyết định thời điểm tiêm hCG, nhưng cần thêm nghiên cứu để khẳng định kết quả này.
 
Nguồn: Ling, L., Xia, D., Jin, Y. et al. Effect of follicle size on pregnancy outcomes in patients undergoing first letrozole-intrauterine insemination. Eur J Med Res 29, 184 (2024). https://doi.org/10.1186/s40001-024-01794-8
 
Các tin khác cùng chuyên mục:
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Năm 2020

Vinpearl Landmark 81, ngày 9-10 tháng 8 năm 2025

Năm 2020

Chủ nhật ngày 20 . 07 . 2025, Caravelle Hotel Saigon (Số 19 - 23 Công ...

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...

Sách ra mắt ngày 6 . 1 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK