Tin tức
on Thursday 16-09-2021 9:27pm
Danh mục: Tin quốc tế
NHS. Trần Thị Diểm Hân – Đơn vị HTSS, Bệnh viện Mỹ Đức
Hội chứng buồng trứng đa nang (HCBTĐN) là một rối loạn nội tiết phổ biến, ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của người phụ nữ. Tỷ lệ phụ nữ có HCBTĐN bị thừa cân và béo phì cao hơn so với phụ nữ không có HCBTĐN. Điều này không chỉ là hậu quả của các rối loạn bệnh sinh của hội chứng này mà còn có thể liên quan đến các khó khăn trong việc thay đổi lối sống và chế độ ăn của họ. Các vấn đề liên quan đến trải nghiệm của những phụ nữ có HCBTĐN trong quá trình quản lý cân nặng và thay đổi lối sống của họ chưa được nghiên cứu nhiều. Do đó, Lim và cộng sự (2019) đã tiến hành nghiên cứu để khảo sát và tìm hiểu các trải nghiệm của phụ nữ có HCBTĐN trong quản lý cân nặng đồng thời xác định các yếu tố hỗ trợ cũng như các rào cản đối với việc thay đổi lối sống ở phụ nữ có HCBTĐN. Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 12 năm 2016 đến tháng 3 năm 2017, được phê duyệt bởi Hội đồng đạo đức Nghiên cứu khoa học của Đại học Tây Sydney, với 10 phụ nữ có HCBTĐN tham gia vào các nhóm tập trung và phỏng vấn bán cấu trúc qua điện thoại về lối sống và quản lý cân nặng trong HCBTĐN. Các cuộc thảo luận đã được thu âm và ghi chép lại. Nghiên cứu phân tích định tính thông tin từ các bản ghi theo các chủ đề bằng phương pháp phân tích so sánh liên tiếp.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, những phụ nữ này đã trải qua hầu hết các phương pháp giảm cân, từ áp dụng các chế độ ăn kiêng do mình tự thiết kế hay tham khảo với các chuyên gia dinh dưỡng đến thực hành các môn thể thao như Thái boxing, yoga, các bài tập thể lực với huấn luyện viên, thậm chí là can thiệp phẫu thuật.
Các biện pháp hỗ trợ cụ thể tạo điều kiện để quản lý cân nặng được kể đến bao gồm áp dụng những khẩu phần ăn có công thức cụ thể theo từng bữa trong ngày. Chế độ ăn này có hiệu quả hơn là áp dụng những lời khuyên về một chế độ ăn “giảm chất béo”. Hơn nữa, nếu có người đồng hành như một chuyên gia dinh dưỡng, hay gia đình, bạn bè cùng nhau giảm cân và báo cáo tiến độ giảm cân mỗi ngày sẽ là nguồn động lực giúp họ tiếp tục cố gắng trong hành trình giảm cân của mình. Những yếu tố này rất quan trọng, chỉ cần có người thúc đẩy và giữ cho họ đi đúng hướng cũng như nhắc nhở họ phải có trách nhiệm với mục tiêu giảm cân, những phụ nữ này sẽ vượt qua sự chán nản, chiến thắng bản thân và tiếp tục cố gắng. Tuy nhiên, động lực nội tại hay sự nỗ lực, một tinh thần hứng thú, yêu thích khi thay đổi lối sống trong hành trình giảm cân của họ, chính là yếu tố giúp thành công lâu dài với bất kỳ chiến lược quản lý cân nặng nào.
Nghiên cứu cũng cho thấy những yếu tố cụ thể cản trở trong hành trình giảm cân của phụ nữ béo phì có HCBTĐN. Đầu tiên phụ nữ có HCBTĐN thường nghĩ chính hội chứng này là yếu tố cản trở họ nhiều nhất. Kế đến là vấn đề về cảm xúc của chính bản thân họ. Khi nhìn thấy những cô gái khác trong phòng tập gym với dáng người thon thả, họ tự ti về hình ảnh của bản thân và không muốn tập luyện trong không gian đó. Tiếp theo là về chế độ ăn kiêng dễ gây ra cảm giác chán nản. Trong khi nấu ăn là một điều thú vị để họ giảm stress, thì chế độ ăn cho người béo phì khiến họ cảm thấy chán nản vì không được nấu theo ý thích. Ngoài ra, công việc cũng là một yếu tố ngăn cản trong việc giảm cân. Làm việc toàn thời gian khiến họ không có điều kiện thực hiện nghiêm túc chế độ ăn kiêng trong ngày, hay không ai muốn tập luyện vào buổi tối muộn sau một ngày làm việc mệt mỏi. Thêm vào đó, các yếu tố về thời gian, không gian, chi phí để mời một huấn luyện viên hay chuyên gia dinh dưỡng riêng cũng là một vấn đề lớn. Cuối cùng yếu tố gia đình cũng có những tác động mạnh mẽ ngăn cản họ giảm cân. Một số ông chồng không ủng hộ về chế độ ăn kiêng, luôn muốn vợ mình phải ăn đầy đủ chất, hay sự ưu tiên khẩu phần ăn theo ưa thích của những đứa con của họ, điều này đã phá vỡ kế hoạch giảm cân.
Sự thay đổi cân nặng theo vòng lặp lại giảm cân - tăng cân (hiệu ứng yo-yo) là trải nghiệm thường gặp ở phụ nữ trong nghiên cứu này. Điều này có thể liên quan đến sự hấp thu năng lượng nhiều hơn và hoạt động thể chất ít hơn ở phụ nữ có HCBTĐN. Chế độ ăn uống cao hơn có thể do rối loạn chức năng điều hòa cảm giác thèm ăn vì phụ nữ có HCBTĐN bị rối loạn điều hòa các nội tiết tố cholecystokinin (tạo cảm giác no) và ghrelin (tạo cảm giác đói). Các nghiên cứu cũng cho thấy các quá trình chuyển hóa-trao đổi chất ở phụ nữ có HCBTĐN không có tác động đến quá trình giảm cân. Việc tăng cân trở lại sau khi giảm cân sẽ tác động bất lợi đến sức khỏe tinh thần của phụ nữ có HCBTĐN bao gồm cảm giác hụt hẫng, tự ti và xấu hổ về hình ảnh của bản thân, những điều đó gây giảm động lực cho việc quản lý cân nặng cũng như phòng ngừa tăng cân.
Phụ nữ có HCBTĐN đã cố gắng thực hiện nhiều phương pháp quản lý cân nặng nhưng để có được hiệu quả của việc giảm cân là một thách thức lớn. Điều này có thể do thiếu hỗ trợ chuyên nghiệp trong các nỗ lực của họ. Phụ nữ có HCBTĐN phải đối diện với các yếu tố thúc đẩy và rào cản liên quan đến cá nhân, môi trường - xã hội trong việc thay đổi lối sống để giảm cân. Hơn nữa họ phải đối mặt với cảm giác kém tự tin và tỷ lệ suy nghĩ tiêu cực cao, có thể làm giảm khả năng duy trì nỗ lực thay đổi lối sống của họ về lâu dài. Cần có các nghiên cứu sâu hơn để phát triển một kế hoạch thay đổi lối sống phù hợp và dễ vận dụng cũng như giải quyết khía cạnh tâm lý xã hội của phụ nữ có HCBTĐN.
Tài liệu tham khảo:
Lim S, Smith CA, Costello MF, MacMillan F, Moran L, Ee C. Barriers and facilitators to weight management in overweight and obese women living in Australia with PCOS: a qualitative study. BMC Endocr Disord. 2019 Oct 23;19(1):106. doi: 10.1186/s12902-019-0434-8. PMID: 31647000; PMCID: PMC6813064.
Hội chứng buồng trứng đa nang (HCBTĐN) là một rối loạn nội tiết phổ biến, ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của người phụ nữ. Tỷ lệ phụ nữ có HCBTĐN bị thừa cân và béo phì cao hơn so với phụ nữ không có HCBTĐN. Điều này không chỉ là hậu quả của các rối loạn bệnh sinh của hội chứng này mà còn có thể liên quan đến các khó khăn trong việc thay đổi lối sống và chế độ ăn của họ. Các vấn đề liên quan đến trải nghiệm của những phụ nữ có HCBTĐN trong quá trình quản lý cân nặng và thay đổi lối sống của họ chưa được nghiên cứu nhiều. Do đó, Lim và cộng sự (2019) đã tiến hành nghiên cứu để khảo sát và tìm hiểu các trải nghiệm của phụ nữ có HCBTĐN trong quản lý cân nặng đồng thời xác định các yếu tố hỗ trợ cũng như các rào cản đối với việc thay đổi lối sống ở phụ nữ có HCBTĐN. Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 12 năm 2016 đến tháng 3 năm 2017, được phê duyệt bởi Hội đồng đạo đức Nghiên cứu khoa học của Đại học Tây Sydney, với 10 phụ nữ có HCBTĐN tham gia vào các nhóm tập trung và phỏng vấn bán cấu trúc qua điện thoại về lối sống và quản lý cân nặng trong HCBTĐN. Các cuộc thảo luận đã được thu âm và ghi chép lại. Nghiên cứu phân tích định tính thông tin từ các bản ghi theo các chủ đề bằng phương pháp phân tích so sánh liên tiếp.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, những phụ nữ này đã trải qua hầu hết các phương pháp giảm cân, từ áp dụng các chế độ ăn kiêng do mình tự thiết kế hay tham khảo với các chuyên gia dinh dưỡng đến thực hành các môn thể thao như Thái boxing, yoga, các bài tập thể lực với huấn luyện viên, thậm chí là can thiệp phẫu thuật.
Các biện pháp hỗ trợ cụ thể tạo điều kiện để quản lý cân nặng được kể đến bao gồm áp dụng những khẩu phần ăn có công thức cụ thể theo từng bữa trong ngày. Chế độ ăn này có hiệu quả hơn là áp dụng những lời khuyên về một chế độ ăn “giảm chất béo”. Hơn nữa, nếu có người đồng hành như một chuyên gia dinh dưỡng, hay gia đình, bạn bè cùng nhau giảm cân và báo cáo tiến độ giảm cân mỗi ngày sẽ là nguồn động lực giúp họ tiếp tục cố gắng trong hành trình giảm cân của mình. Những yếu tố này rất quan trọng, chỉ cần có người thúc đẩy và giữ cho họ đi đúng hướng cũng như nhắc nhở họ phải có trách nhiệm với mục tiêu giảm cân, những phụ nữ này sẽ vượt qua sự chán nản, chiến thắng bản thân và tiếp tục cố gắng. Tuy nhiên, động lực nội tại hay sự nỗ lực, một tinh thần hứng thú, yêu thích khi thay đổi lối sống trong hành trình giảm cân của họ, chính là yếu tố giúp thành công lâu dài với bất kỳ chiến lược quản lý cân nặng nào.
Nghiên cứu cũng cho thấy những yếu tố cụ thể cản trở trong hành trình giảm cân của phụ nữ béo phì có HCBTĐN. Đầu tiên phụ nữ có HCBTĐN thường nghĩ chính hội chứng này là yếu tố cản trở họ nhiều nhất. Kế đến là vấn đề về cảm xúc của chính bản thân họ. Khi nhìn thấy những cô gái khác trong phòng tập gym với dáng người thon thả, họ tự ti về hình ảnh của bản thân và không muốn tập luyện trong không gian đó. Tiếp theo là về chế độ ăn kiêng dễ gây ra cảm giác chán nản. Trong khi nấu ăn là một điều thú vị để họ giảm stress, thì chế độ ăn cho người béo phì khiến họ cảm thấy chán nản vì không được nấu theo ý thích. Ngoài ra, công việc cũng là một yếu tố ngăn cản trong việc giảm cân. Làm việc toàn thời gian khiến họ không có điều kiện thực hiện nghiêm túc chế độ ăn kiêng trong ngày, hay không ai muốn tập luyện vào buổi tối muộn sau một ngày làm việc mệt mỏi. Thêm vào đó, các yếu tố về thời gian, không gian, chi phí để mời một huấn luyện viên hay chuyên gia dinh dưỡng riêng cũng là một vấn đề lớn. Cuối cùng yếu tố gia đình cũng có những tác động mạnh mẽ ngăn cản họ giảm cân. Một số ông chồng không ủng hộ về chế độ ăn kiêng, luôn muốn vợ mình phải ăn đầy đủ chất, hay sự ưu tiên khẩu phần ăn theo ưa thích của những đứa con của họ, điều này đã phá vỡ kế hoạch giảm cân.
Sự thay đổi cân nặng theo vòng lặp lại giảm cân - tăng cân (hiệu ứng yo-yo) là trải nghiệm thường gặp ở phụ nữ trong nghiên cứu này. Điều này có thể liên quan đến sự hấp thu năng lượng nhiều hơn và hoạt động thể chất ít hơn ở phụ nữ có HCBTĐN. Chế độ ăn uống cao hơn có thể do rối loạn chức năng điều hòa cảm giác thèm ăn vì phụ nữ có HCBTĐN bị rối loạn điều hòa các nội tiết tố cholecystokinin (tạo cảm giác no) và ghrelin (tạo cảm giác đói). Các nghiên cứu cũng cho thấy các quá trình chuyển hóa-trao đổi chất ở phụ nữ có HCBTĐN không có tác động đến quá trình giảm cân. Việc tăng cân trở lại sau khi giảm cân sẽ tác động bất lợi đến sức khỏe tinh thần của phụ nữ có HCBTĐN bao gồm cảm giác hụt hẫng, tự ti và xấu hổ về hình ảnh của bản thân, những điều đó gây giảm động lực cho việc quản lý cân nặng cũng như phòng ngừa tăng cân.
Phụ nữ có HCBTĐN đã cố gắng thực hiện nhiều phương pháp quản lý cân nặng nhưng để có được hiệu quả của việc giảm cân là một thách thức lớn. Điều này có thể do thiếu hỗ trợ chuyên nghiệp trong các nỗ lực của họ. Phụ nữ có HCBTĐN phải đối diện với các yếu tố thúc đẩy và rào cản liên quan đến cá nhân, môi trường - xã hội trong việc thay đổi lối sống để giảm cân. Hơn nữa họ phải đối mặt với cảm giác kém tự tin và tỷ lệ suy nghĩ tiêu cực cao, có thể làm giảm khả năng duy trì nỗ lực thay đổi lối sống của họ về lâu dài. Cần có các nghiên cứu sâu hơn để phát triển một kế hoạch thay đổi lối sống phù hợp và dễ vận dụng cũng như giải quyết khía cạnh tâm lý xã hội của phụ nữ có HCBTĐN.
Tài liệu tham khảo:
Lim S, Smith CA, Costello MF, MacMillan F, Moran L, Ee C. Barriers and facilitators to weight management in overweight and obese women living in Australia with PCOS: a qualitative study. BMC Endocr Disord. 2019 Oct 23;19(1):106. doi: 10.1186/s12902-019-0434-8. PMID: 31647000; PMCID: PMC6813064.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Kết quả thai trên những bệnh nhân là người lành mang chuyển đoạn thuận nghịch trước và sau khi thực hiện tầm soát di truyền tiền làm tổ - Ngày đăng: 16-09-2021
Chuyển phôi trữ ngay lập tức hay trì hoãn chuyển phôi trữ ở bệnh nhân thất bại trong chu kỳ chuyển phôi tươi: một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên đa trung tâm - Ngày đăng: 16-09-2021
Định lượng DNA ti thể không xâm lấn ở phôi ngày 3 tiên lượng khả năng phát triển phôi nang: một nghiên cứu tiến cứu mù đôi đa trung tâm - Ngày đăng: 16-09-2021
Các thông số động học hình thái làm tiêu chí bổ trợ để lựa chọn phôi nang trong hệ thống nuôi cấy time – lapse - Ngày đăng: 16-09-2021
DNA ti thể trong môi trường nuôi cấy của phôi tươi so với phôi trữ ở bệnh nhân PCOS điều trị thụ tinh trong ống nghiệm: Một dấu ấn tiên lượng thai lâm sàng - Ngày đăng: 16-09-2021
Melatonin làm giảm stress oxi hóa và quá trình apoptosis do sốc nhiệt ở tinh trùng người - Ngày đăng: 16-09-2021
Són tiểu sau khi sinh ngả âm đạo hoặc mổ lấy thai - Ngày đăng: 16-09-2021
Tác động của lạc nội mạc tử cung đến chất lượng cuộc sống và tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm - Ngày đăng: 16-09-2021
Liệu sự sinh sản có giống nhau sau COVID-19 hay không? - Ngày đăng: 16-09-2021
Tỷ lệ trẻ sinh sống trong chu kỳ chuyển đơn phôi nang sau 6 hoặc 7 ngày sử dụng progesterone: Nghiên cứu đoàn hệ theo phương pháp điểm xu hướng - Ngày đăng: 13-09-2021
Cải thiện kết quả đông lạnh tinh trùng người bằng phương pháp thủy tinh hóa cải tiến - Ngày đăng: 13-09-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK