Tin tức
on Friday 02-07-2021 4:05pm
Danh mục: Tin quốc tế
BS. Lê Tiểu My
Thai giới hạn tăng trưởng (FGR) có tỷ lệ khoảng 10% tổng số thai kỳ và là một trong những nguyên nhân làm tăng nguy cơ mắc bệnh và tử vong chu sinh. Theo tiêu chuẩn của đồng thuận Delphi, FGR khởi phát sớm và muộn được phân biệt dựa vào thời điểm xảy ra trước hoặc sau 32 tuần, trong đó dữ liệu về kết cục thai kỳ cũng như hướng dẫn về chiến lược theo dõi cũng như thời điểm chấm dứt thai kỳ trường hợp khởi phát muộn hiện vẫn còn hạn chế. Bằng chứng gần đây cho phép hướng tới đồng thuận về ứng dụng lâm sàng của siêu âm Doppler trong theo dõi và quyết định thời điểm chấm dứt thai kỳ, tuy nhiên chứng cứ về mối tương quan giữa các giá trị Doppler bất thường và mức độ của giới hạn tăng trưởng cũng như là các kết cục bất lợi thai kỳ hiện chưa đầy đủ.
Mới đây, một nghiên cứu đoán hệ hồi cứu đánh giá mối liên hệ giữa các chỉ số Doppler tại thời điểm chẩn đoán FGR khởi phát muộn và kết cục bất lợi của thai kỳ đã công bố kết quả phân tích được trên Tạp chí siêu âm Sản phụ khoa. Đây là nghiên cứu đa trung tâm, thời gian thu thập dữ liệu từ năm 2014 đến năm 2019 ở thai kỳ đơn thai không có bất thường được chẩn đoán FGR muộn. Các kết cục được đánh giá bao gồm thai lưu, can thiệp do suy thai trong chuyển dạ, toan hóa máu thai nhi, nhập đơn vị săn sóc sơ sinh tích cực và phối hợp từ hai kết cục bất lợi trở lên.
Tổng cộng có 468 trường hợp có đầy đủ thông tin về sinh trắc học và các chỉ số Doppler động mạch rốn, não giữa và động mạch tử cung, trong đó kết cục bất lợi phối hợp được ghi nhận ở 53 (11,3%) trường hợp. Phân tích hồi quy logistic, chỉ có bách phân vị cân nặng ước đoán của thai (EFW) được chứng minh là có liên quan độc lập với kết cục bất lợi phối hợp (với p = 0,01) và nhập NICU (p <0,01), trong khi chỉ số đập (PI) trung bình của ĐM tử cung MoM > BPV 95 ở thời điểm chẩn đoán được chứng minh là có liên quan độc lập đến can thiệp sản khoa do suy thai trong chuyển dạ (p <0,01). Mô hình bao gồm đặc điểm cơ bản của thai kỳ và bách phân vị EFW liên quan đến kết cục bất lợi phối hợp có diện tích dưới đường cong là 0,889, 95%CI (0,813-0,966), p <0,001. Ngưỡng cắt tương ứng với bách phân vị thứ 3,95 cho thấy phân biệt tốt hơn giữa các trường hợp có và không có kết cục bất lợi phối hợp với độ nhạy 58,5% (95%CI 44,1-71,9), độ đặc hiệu 69,6% (95% CI 65,0-74,0], giá trị tiên đoán dương 19,8% [95% CI 13,8-26,8] và giá trị tiên đoán âm 92,9% (95% CI 89,5-95,5).
Như vậy, hồi cứu dữ liệu từ đoàn hệ thai FGR khởi phát muộn này cho thấy EFW tại thời điểm chẩn đoán là chỉ số duy nhất trên siêu âm có liên quan độc lập đến các kết cục bất lợi của thai kỳ. Giá trị PI động mạch tử cung MoM >BPV 95 tại thời điểm chẩn đoán liên quan đến can thiệp Sản khoa do suy thai trong chuyển dạ. Thông tin này có thể hữu ích khi tư vấn cho những bệnh nhân đơn thai có FGR khởi phát muộn.
Lược dịch từ: Ultrasound prediction of adverse outcome and perinatal complications at diagnosis of late-onset fetal growth restriction: a cohort study – doi:10.1002/uog.23714
Thai giới hạn tăng trưởng (FGR) có tỷ lệ khoảng 10% tổng số thai kỳ và là một trong những nguyên nhân làm tăng nguy cơ mắc bệnh và tử vong chu sinh. Theo tiêu chuẩn của đồng thuận Delphi, FGR khởi phát sớm và muộn được phân biệt dựa vào thời điểm xảy ra trước hoặc sau 32 tuần, trong đó dữ liệu về kết cục thai kỳ cũng như hướng dẫn về chiến lược theo dõi cũng như thời điểm chấm dứt thai kỳ trường hợp khởi phát muộn hiện vẫn còn hạn chế. Bằng chứng gần đây cho phép hướng tới đồng thuận về ứng dụng lâm sàng của siêu âm Doppler trong theo dõi và quyết định thời điểm chấm dứt thai kỳ, tuy nhiên chứng cứ về mối tương quan giữa các giá trị Doppler bất thường và mức độ của giới hạn tăng trưởng cũng như là các kết cục bất lợi thai kỳ hiện chưa đầy đủ.
Mới đây, một nghiên cứu đoán hệ hồi cứu đánh giá mối liên hệ giữa các chỉ số Doppler tại thời điểm chẩn đoán FGR khởi phát muộn và kết cục bất lợi của thai kỳ đã công bố kết quả phân tích được trên Tạp chí siêu âm Sản phụ khoa. Đây là nghiên cứu đa trung tâm, thời gian thu thập dữ liệu từ năm 2014 đến năm 2019 ở thai kỳ đơn thai không có bất thường được chẩn đoán FGR muộn. Các kết cục được đánh giá bao gồm thai lưu, can thiệp do suy thai trong chuyển dạ, toan hóa máu thai nhi, nhập đơn vị săn sóc sơ sinh tích cực và phối hợp từ hai kết cục bất lợi trở lên.
Tổng cộng có 468 trường hợp có đầy đủ thông tin về sinh trắc học và các chỉ số Doppler động mạch rốn, não giữa và động mạch tử cung, trong đó kết cục bất lợi phối hợp được ghi nhận ở 53 (11,3%) trường hợp. Phân tích hồi quy logistic, chỉ có bách phân vị cân nặng ước đoán của thai (EFW) được chứng minh là có liên quan độc lập với kết cục bất lợi phối hợp (với p = 0,01) và nhập NICU (p <0,01), trong khi chỉ số đập (PI) trung bình của ĐM tử cung MoM > BPV 95 ở thời điểm chẩn đoán được chứng minh là có liên quan độc lập đến can thiệp sản khoa do suy thai trong chuyển dạ (p <0,01). Mô hình bao gồm đặc điểm cơ bản của thai kỳ và bách phân vị EFW liên quan đến kết cục bất lợi phối hợp có diện tích dưới đường cong là 0,889, 95%CI (0,813-0,966), p <0,001. Ngưỡng cắt tương ứng với bách phân vị thứ 3,95 cho thấy phân biệt tốt hơn giữa các trường hợp có và không có kết cục bất lợi phối hợp với độ nhạy 58,5% (95%CI 44,1-71,9), độ đặc hiệu 69,6% (95% CI 65,0-74,0], giá trị tiên đoán dương 19,8% [95% CI 13,8-26,8] và giá trị tiên đoán âm 92,9% (95% CI 89,5-95,5).
Như vậy, hồi cứu dữ liệu từ đoàn hệ thai FGR khởi phát muộn này cho thấy EFW tại thời điểm chẩn đoán là chỉ số duy nhất trên siêu âm có liên quan độc lập đến các kết cục bất lợi của thai kỳ. Giá trị PI động mạch tử cung MoM >BPV 95 tại thời điểm chẩn đoán liên quan đến can thiệp Sản khoa do suy thai trong chuyển dạ. Thông tin này có thể hữu ích khi tư vấn cho những bệnh nhân đơn thai có FGR khởi phát muộn.
Lược dịch từ: Ultrasound prediction of adverse outcome and perinatal complications at diagnosis of late-onset fetal growth restriction: a cohort study – doi:10.1002/uog.23714
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mức độ ferritin có liên quan tỉ lệ nghịch với số lần sẩy thai trước đó ở nhóm phụ nữ bị sẩy thai liên tiếp - Ngày đăng: 02-07-2021
Báo cáo trường hợp sinh sống ở bệnh nhân noãn thu nhận được hoàn toàn không có màng zona - Ngày đăng: 02-07-2021
“Thủy tinh hóa cân bằng” phôi chuột ở các giai đoạn phát triển khác nhau sử dụng chất bảo vệ đông lạnh nồng độ thấp - Ngày đăng: 30-06-2021
Mổ lấy thai và nguy cơ tổn thương ống dẫn trứng sau đó ở phụ nữ hiếm muộn - Ngày đăng: 30-06-2021
Vai trò của một số chỉ số huyết học trong việc dự đoán thành công của các chu kì thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 30-06-2021
Lựa chọn tinh trùng dựa trên quá trình xâm nhập – lắng đọng và không cần ly tâm: Phương pháp mới giúp đảm bảo chức năng và tính toàn vẹn của DNA tinh trùng - Ngày đăng: 27-06-2021
Suy giảm quá trình sinh tinh ở bệnh nhân COVID-19 - Ngày đăng: 26-06-2021
Đặc điểm phôi và các kết quả lâm sàng của noãn có màng zona pellucida không đồng nhất: một nghiên cứu hồi cứu - Ngày đăng: 26-06-2021
Phân tích tổng hợp ảnh hưởng của đám lưới nội chất trơn đối với kết quả sinh sản - Ngày đăng: 26-06-2021
Sơ lược về phôi khảm và kết quả chuyển phôi khảm trong điều trị thụ tinh trong ống nghiệm - Ngày đăng: 24-06-2021
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK