Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Thursday 08-10-2020 3:47pm
Viết bởi: Administrator
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Nguyễn Thị Ngọc Huệ - IVFMD Bình Dương
 
Tỉ lệ thành công của một chu kì điều trị IVF phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có chất lượng noãn. Ở một số trường hợp, trong tổng số cụm noãn thu được sau chọc hút có sự xuất hiện của một hoặc vài noãn thoái hóa. Các noãn này được mô tả là một cụm noãn (COC) khi quan sát thấy zona pellucida trống (empty zona pellucida) hoặc noãn đã tổn thương (damaged oocyte) trong zona pellucida. Sự hiện diện của noãn thoái hóa sau chọc hút được cho là có mối tương quan đến chất lượng của toàn bộ noãn, cụ thể là chất lượng noãn kém hơn, khả năng thụ tinh thấp hơn, tỉ lệ hình thành phôi và tỉ lệ thai thấp hơn. Dù vậy, các nghiên cứu đánh giá kết quả phôi ở những chu kì có noãn thoái hóa sau chọc hút vẫn còn hạn chế. Do đó nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá mối tương quan giữa noãn thoái hóa đến hình thái của phôi ở nhóm có noãn thoái hóa sau chọc hút và nhóm không có noãn thoái hóa sau chọc hút.

Đây là một nghiên cứu hồi cứu được thực hiện từ 1/1/2016 đến 31/9/2017 trên 399 chu kì IVF/ICSI với 2980 phôi nuôi cấy ở tủ cấy timelapse được đánh giá động học và được chia thành 2 nhóm: nhóm DEG - nhóm có noãn thoái hóa sau chọc hút (ít nhất 1 noãn, n=81) và nhóm không có noãn thoái hóa (NON-DEG, n=318). Các noãn được thu nhận bằng hai loại kim chọc hút, bao gồm 17G/35mm và 17-20G/35mm. Phôi được đánh giá dựa vào thuật toán hình thái học KIDScore theo thang điểm từ 1-5 tiên lượng khả năng làm tổ của phôi và thang điểm hình thái dựa theo đồng thuận Alfa ESHRE.

Kết quả cho thấy:
- Trong nhóm DEG, số lượng noãn/bệnh nhân thu được nhiều hơn đáng kể so với nhóm NON-DEG, tương ứng 12,9 ± 7,2 so với 10,1 ± 6,1, P <0,001.
- Tỉ lệ thụ tinh, tỉ lệ thai và tỉ lệ thai lâm sàng không có sự khác biệt giữa 2 nhóm, tuy nhiên điểm KID và điểm ESHRE thấp hơn đáng kể trong nhóm DEG so với nhóm NON-DEG (KID 3,4 ± 1,6 so với 3,2 ± 1,6 P = 0,002 và ESHRE 1,5 ± 1,1 so với 1,4 ± 1,0 P = 0,046).
- Tỉ lệ phôi tốt ở nhóm NON-DEG cao hơn đáng kể so với nhóm DEG (58,8% so với 53%, p =0,03)
- Tỉ lệ DEG cao hơn khi chọc hút noãn bằng kim 17-20G so với kim 17G (P=0,015)
Như vậy, các kết quả của nghiên cứu cho thấy các chu kì có noãn thoái hóa trong tổng số noãn sau chọc hút thì có chất lượng phôi tốt thấp hơn đáng kể so với nhóm không có noãn thoái hóa, bên cạnh đó sử dụng kim 17G để chọc hút cho tỉ lệ noãn thoái hóa thấp hơn khi sử dụng kim 17-20G. Hiện tại, đây là một trong số ít các nghiên cứu giải thích sự hiện diện của noãn thoái hóa sau chọc hút và đánh giá mối tương quan đến chất lượng phôi.
 
Nguồn: Yuval Atzmon và cs,. (2020). Degenerated oocyte in the cohort adversely affects IVF outcome, Journal Ovarian Research. DOI: 10.1186/s13048-020-00708-6

Các tin khác cùng chuyên mục:
Điều trị ung thư vú trong thai kỳ - Ngày đăng: 08-10-2020
Thuốc lá và khả năng sinh sản - Ngày đăng: 01-10-2020
Hút thuốc lá và khả năng sinh sản - Ngày đăng: 01-10-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025

Năm 2020
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ

Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK