Tin tức
on Thursday 08-10-2020 8:10am
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Võ Như Thanh Trúc – Chuyên viên phôi học – IVFAS
Tình trạng vô sinh hiện đang là vấn đề được quan tâm nhiều hơn trong chăm sóc sức khoẻ và nó ảnh hưởng đến khoảng 20% các cặp vợ chồng ở độ tuổi sinh sản và ảnh hưởng gần như trực tiếp đến chất lượng cuộc sống của các cặp vợ chồng này. Mặc dù nhiều bằng chứng cho thấy các vấn đề liên quan đến chất lượng phôi có liên quan đến các yếu tố đến từ noãn, một số nghiên cứu cho thấy tinh trùng cũng góp phần không nhỏ đến tiềm năng phát triển của hợp tử sau thụ tinh. Một số bằng chứng cho thấy sự sai khác trong thành phần protein ở tinh trùng có thể dẫn đến tỉ lệ thụ tinh thấp, giảm chất lượng phôi nang cũng như giảm khả năng thành công ở các chu kì điều trị thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) bằng IVF/ICSI.
Nghiên cứu của Jodar và cộng sự thực hiện phân tích thành phần protein trên mẫu tinh trùng thu nhận từ 27 bệnh nhân hiếm muộn điều trị TTTON bằng ICSI. Protein tổng từ các mẫu tinh trùng này sẽ được tách chiết và làm biến tính, sau đó được gắn với một số phân tử đánh dấu đặc hiệu. Các protein này sẽ được phân tách bằng phương pháp sắc kí lỏng 2 chiều và tiến hành định tính, định lượng bằng phương pháp khối phổ song song. Sau đó, thành phần protein cũng như peptide sau khi đã phân tích sẽ được dùng làm dữ liệu phân tích thống kê dựa trên chất lượng phôi sau ICSI của những bệnh nhân này.
Kết quả nghiên cứu cho thấy có 18 protein từ tinh trùng có mối liên hệ mật thiết đến chất lượng phôi sau ICSI. Đáng chú ý là đa số những phôi kém chất lượng có liên quan đến sự sai khác trong thành phần các protein tinh trùng thuộc họ phức hợp “eight-membered chaperonin-containing T-complex”, họ protein này đóng vai trò quan trọng trong hoạt động cuộn xoắn tạo cấu trúc thứ cấp cho nhiều protein thiết yếu trong hoạt động sống của tế bào. Ngoài ra, một số protein ở tinh trùng được biết đến với vai trò chức năng trong quá trình tạo phôi như RUBVL1 cũng được chứng minh là có liên quan đến chất lượng phôi giai đoạn sớm.
Kết quả của nghiên cứu này góp phần khẳng định thêm giả thuyết proteome của tinh trùng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển phôi giai đoạn sớm. Hơn nữa, một vài protein có thể được ứng dụng trong tương lai để phát triển thành các biomarker nhằm tiên lượng kết cục điều trị TTTON ở các bệnh nhân hiếm muộn.
Nguồn: Jodar M., Claudio A.P., et al., “Sperm proteomic changes associated with early embryo quality after ICSI”, RBMO 2020, 40(5): 700 – 710.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Xét nghiệm ERA kết hợp với PGT-A có cải thiện kết cục điều trị ở những bệnh nhân thất bại làm tổ nhiều lần hay không? - Ngày đăng: 06-10-2020
Lấy mẫu tinh dịch tại nhà có tác động tích cực đến tỉ lệ phôi nang hữu dụng - Ngày đăng: 06-10-2020
Không có mối tương quan giữa tuổi bố và kết cục điều trị trong chu kỳ xin cho noãn - Ngày đăng: 06-10-2020
Lạc nội mạc tử cung và nguy cơ sẩy thai - Ngày đăng: 06-10-2020
Mắc Cytomegalovirus bẩm sinh có phải là nguyên nhân hàng đầu gây tật đầu nhỏ? - Ngày đăng: 06-10-2020
Tần suất rối loạn chức năng tuyến giáp và bệnh tự miễn ở phụ nữ có tiền sử sẩy thai hoặc vô sinh - Ngày đăng: 06-10-2020
Thuốc lá và khả năng sinh sản - Ngày đăng: 01-10-2020
Hút thuốc lá và khả năng sinh sản - Ngày đăng: 01-10-2020
Vai trò của prokineticins ở những bệnh nhân thất bại làm tổ liên tiếp - Ngày đăng: 30-09-2020
Ảnh hưởng của thời điểm tách trứng và tiêm tinh trùng lên kết cục điều trị của các chu kì ICSI: hiểu biết mới về nguy cơ lão hoá noãn trong ống nghiệm - Ngày đăng: 30-09-2020
Chuyển phôi nang đông lạnh làm giảm tỷ lệ thai ngoài tử cung so với chuyển phôi nang tươi - Ngày đăng: 30-09-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK