Tin tức
on Saturday 07-03-2020 10:14am
Danh mục: Tin quốc tế
CVPH. Lê Thị Bích Phượng - IVFMD Phú Nhuận
Trong điều trị IVF, chỉ có những noãn trưởng thành mới được sử dụng để thụ tinh. Kỹ thuật nuôi trưởng thành noãn (IVM) ra đời, hỗ trợ cho những trường hợp bệnh nhân có nguy cơ quá kích buồng trứng, không có noãn trưởng thành hoặc có quá nhiều noãn non. Những năm gần đây, sự ra đời của kỹ thuật đông lạnh mô buồng trứng nhằm bảo tồn khả năng sinh sản cung cấp thêm khả năng phát triển mô hình IVM mới bằng cách nuôi noãn từ những nang noãn có hốc với kích thước nhỏ. Đông lạnh mô buồng trứng là kỹ thuật cắt bỏ buồng trứng và đông lạnh lớp mô vỏ đồng thời thu nhận những noãn non để nuôi trưởng thành in vitro mà không cần sử dụng hormon kích thích, phương pháp này phù hợp với những bé gái chưa dậy thì hoặc những bệnh nhân ung thư phải điều trị gấp. Trong nghiên cứu này của mình, Dmitry Nikiforov và cộng sự mong muốn tăng số lượng noãn trưởng thành từ noãn non thu nhận từ phần mô không trữ lạnh thông qua cải thiện quy trình nuôi cấy IVM bằng cách bổ sung yếu tố tăng trưởng midkine. Đồng thời đánh giá vai trò của lớp cumulus bao xung quanh noãn thông qua đánh giá tỉ lệ trưởng thành và tỉ lệ lệch bội.
Nghiên cứu tiến cứu thực hiện từ tháng 12/2017 đến tháng 03/2018 trên 25 bệnh nhân có chỉ định trữ mô buồng trứng với độ tuổi trung bình là 28 tuổi. Kết quả nghiên cứu cho thấy:
Tỉ lệ noãn trưởng thành là 31% và tỉ lệ này không khác biệt khi so sánh trên các nhóm tuổi. Kích thước cumulus có liên quan đến tỉ lệ trưởng thành noãn, nghiên cứu thấy rằng noãn được bao quanh bởi lớp cumulus có kích thước lớn hơn cho tỉ lệ trưởng thành nhiều hơn. Nghiên cứu còn cho thấy, tỉ lệ noãn trưởng thành còn phụ thuộc vào việc mẫu mô được thu nhận tại chỗ hay được vận chuyển tới trung tâm nghiên cứu, hệ đệm bảo quản mô buồng trứng và có bổ sung thêm yếu tố tăng trưởng midkine vào môi trường nuôi cấy hay không. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng noãn thu nhận từ mẫu mô được phẫu thuật thu nhận tại chỗ, bảo quản trong hệ đệm HEPES và được nuôi cấy trong môi trường có bổ sung yếu tố tăng trưởng midkine cho tỉ lệ trưởng thành cao đáng kể so với noãn thu nhận từ mẫu mô vận chuyển từ nơi khác, bảo quản trong nước muối và nuôi cấy trong môi trường không bổ sung midkine (49% với 23%, p<0,001). Kỹ thuật NGS được sử dụng để đánh giá tỉ lệ lệch bội trên noãn trưởng thành sau IVM thông qua đánh giá thể cực thứ nhất cho thấy có khoảng 64% noãn trưởng thành là nguyên bội.
Như vậy, nghiên cứu này cho thấy vẫn có thể thu nhận noãn từ những mô buồng trứng trước khi đông lạnh và tỉ lệ noãn trưởng thành sau nuôi cấy tương tự như tỉ lệ noãn trưởng thành trong một chu kỳ kích thích buồng trứng. Ngoài ra, nghiên cứu này cũng cung cấp thêm bằng chứng cho thấy noãn non được thu nhận từ mô buồng trứng bảo quản trong điều kiện tối ưu, bổ sung thêm yếu tố tăng trưởng trong quá trình nuôi cấy trưởng thành noãn có thể cung cấp được những noãn trưởng thành có chất lượng tốt từ đó có thể cải thiện được chất lượng của qui trình bảo tồn khả năng sinh sản cho bệnh nhân.
Nguồn: Improving the maturation rate of human oocytes collected ex vivo during the cryopreservation of ovarian tissue. Journal of Assisted Reproduction and Genetics 2020. 10.1007/s10815-020-01724-7.
Các tin khác cùng chuyên mục:
Tỷ lệ phôi nguyên bội giữa chu kỳ khởi động trưởng thành noãn bằng GNRH đồng vận và HCG - Ngày đăng: 02-03-2020
Yếu tố liên quan đến sẩy thai sớm tự phát sau điều trị IVF/ICSI - Ngày đăng: 02-03-2020
Mô hình tiên lượng trẻ sinh sống trước khi điều trị IVF lần đầu dựa trên đặc điểm nền của bệnh nhân: machine learning - Ngày đăng: 02-03-2020
Trải nghiệm của bệnh nhân khi nhìn thấy hình ảnh phôi nuôi cấy với hệ thống time lapse: một khảo sát tiến cứu - Ngày đăng: 02-03-2020
Hệ thống tiên lượng khả năng phát triển thành phôi nang bằng Deep learning để lựa chọn phôi giai đoạn phân chia - Ngày đăng: 02-03-2020
Ảnh hưởng của quá trình lão hóa lên các chỉ số tinh trùng và sự phân mảnh dna tinh trùng - Ngày đăng: 02-03-2020
Ảnh hưởng của Cadmium lên chất lượng tinh trùng và khả năng phát triển của phôi - Ngày đăng: 02-03-2020
Nucleic acid nội bào và ngoại bào: những marker sinh học không xâm lấn đánh giá tình trạng vô sinh nam - Ngày đăng: 02-03-2020
Anti-mullerian hormone – dấu chỉ sinh học của sẩy thai tự nhiên trong tam cá nguyệt đầu thai kỳ - Ngày đăng: 02-03-2020
Ảnh hưởng của thời gian từ lúc thu nhận noãn đến lúc chuyển phôi trữ lên kết quả lâm sàng trong chu kì trữ phôi toàn bộ - Ngày đăng: 28-02-2020
Khuyến cáo của sart và asrm cho bệnh nhân điều trị vô sinh liên quan đến đại dịch Coronavirus (Covid-19) - Ngày đăng: 28-02-2020
Vitamin D và u xơ cơ tử cung - Ngày đăng: 28-02-2020
THƯ VIÊN
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Hội thảo trực tuyến, thứ bảy 21.9.2024 (11:00 - 13:00)
Năm 2020
Eastin Grand Hotel Saigon, thứ bảy 7.12.2024 và sáng chủ nhật ...
Năm 2020
Novotel Saigon Centre, Thứ Bảy ngày 2 . 11 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 27.9.2024 và gửi đến quý hội viên HOSREM còn ...
Kính mời tác giả gửi bài cộng tác trước 15.12.2024
Sách ra mắt ngày 15 . 5 . 2024 và gửi đến quý hội viên trước ...
FACEBOOK