Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Monday 13-10-2025 5:11am
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Nguyễn Hoàng Bảo Ngân – IVF Tâm Anh

Trước đây, hiến tặng noãn đòi hỏi sử dụng noãn tươi, buộc phải đồng bộ chu kỳ giữa người hiến và người nhận, làm phát sinh nhiều phôi dư thừa. Thủy tinh hóa noãn đã khắc phục những hạn chế này, giúp thành lập ngân hàng giao tử và cho phép các trung tâm không có chương trình hiến riêng vẫn thực hiện điều trị bằng noãn đông lạnh.
Tuy nhiên, hiện nay các hãng thường yêu cầu dùng bộ kit đồng nhất cho cả thủy tinh hóa và rã đông, gây khó khăn cho các phòng labo trong việc duy trì nhiều bộ kit và phương pháp khác nhau. Vấn đề này đặc biệt rõ rệt từ tháng 7/2017, khi Kitazato ngừng chứng nhận CE, buộc nhiều phòng labo phải dùng kit hãng khác để rã đông. Do đó, một phương pháp rã đông chung (Universal Warming Protocol  - UWP) là cần thiết để chuẩn hóa, giảm chi phí, và tăng tính linh hoạt trong hiến tặng và sử dụng noãn đông lạnh trên toàn cầu.
Phương pháp
Đây là nghiên cứu dọc, so sánh và tiến cứu, được thực hiện trên 2172 noãn MII hiến tặng từ tháng 6/2017 đến 12/2019. Tất cả noãn đều được đông lạnh bằng phương pháp và môi trường thủy tinh hóa của Kitazato (Kitazato, Nhật Bản). Noãn sau đó được rã đông tại ba trung tâm hỗ trợ sinh sản độc lập, sử dụng ba bộ kit rã đông khác nhau (Kitazato, Irvine và OMNI), đồng thời tuân thủ các phương pháp rã đông tương ứng của từng trung tâm.
Các nhóm nghiên cứu được phân loại như sau:
  • Nhóm A: 1021 noãn hiến tặng được thủy tinh hóa và rã đông bằng Kitazato (Kitazato, Nhật Bản).
  • Nhóm B: 496 noãn hiến tặng được thủy tinh hóa bằng Kitazato và rã đông bằng IRVINE (Fujifilm Irvine Scientific, Hoa Kỳ).
  • Nhóm C: 655 noãn hiến tặng được thủy tinh hóa bằng Kitazato và rã đông bằng RapidWarm Omni (Vitrolife, Thụy Điển).
Các thông số đánh giá bao gồm tỷ lệ sống, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ phôi phân chia, tỷ lệ tạo phôi nang, và tỷ lệ thai hóa lâm sàng (chuyển phôi ngày 3 và ngày 5).
Kết quả
Tổng cộng 2172 noãn từ 324 ca điều trị đã được đưa vào phân tích. Tỷ lệ sống cao hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm C, so với nhóm A và nhóm B, lần lượt là 94%, so với 86% và 85% (p < 0,01). Tuy nhiên, tỷ lệ sống trong tất cả các trường hợp đều bằng hoặc cao hơn 85%, cho thấy dù có sự khác biệt về thống kê, UWP vẫn chấp nhận được về mặt tỷ lệ sống.
Ngoài ra, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nào được tìm thấy giữa các nhóm đối với các thông số còn lại. Tỷ lệ thụ tinh gồm nhóm A 77%, nhóm B 74%, và nhóm C 73%. Tỷ lệ phôi phân chia ở nhóm A là 83%, nhóm B 83%, và nhóm C 80%. Tỷ lệ phôi nang ở nhóm A, nhóm B, nhóm C lần lượt là 52%, 58%, và 57%.
Thêm vào đó, tỷ lệ thai sinh hóa sau chuyển phôi ngày 3 lần lượt là nhóm A 38%, nhóm B: 33%, nhóm C: 33%; sau chuyển phôi ngày 5 là  nhóm A 54%, B 76%, và C 65%. Tỷ lệ mang thai lâm sàng sau chuyển phôi ngày 3 là nhóm A 27%, B 13%, và C 18%; sau chuyển phôi ngày 5 là A 39%, B 57%, C 60%.
Về đặc điểm bệnh nhân nhận noãn, tuổi trung bình dao động từ 41,06 đến 42,81 tuổi. Một tỷ lệ đáng kể bệnh nhân trong nhóm C (60%) không có nỗ lực mang thai trước đó, trong khi nhóm A và B có tỷ lệ này thấp hơn. Noãn được sử dụng trong nghiên cứu đến từ những người hiến tặng khỏe mạnh trong độ tuổi từ 18 đến 35, với độ tuổi trung bình là 24,1 tuổi. Các yếu tố nam giới, như REM và độ vận động tiến triển ban đầu, được phân tích và mặc dù có sự khác biệt nhỏ giữa các nhóm, tỷ lệ thụ tinh và tạo phôi nang vẫn duy trì ở mức tương tự.
Kết luận
Nghiên cứu kết luận rằng UWP là khả thi. Các trung tâm hỗ trợ sinh sản có thể tự do lựa chọn bộ kit rã đông mà họ muốn sử dụng, không phụ thuộc vào bộ kit thủy tinh hóa đã được dùng cho noãn. Mặc dù nghiên cứu được tiến hành tại các trung tâm khác nhau với các chuyên gia và điều kiện môi trường đa dạng, các kết quả thu được không cho thấy sự khác biệt đáng kể, và khi có sự khác biệt, các tỷ lệ vẫn luôn khá cao. Do đó, việc sử dụng UWP được xác nhận là khả thi và có thể được thực hiện với sự tin tưởng hoàn toàn, tối ưu hóa các kết quả đạt được.
Nghiên cứu có một số hạn chế như sự tham gia của một số lượng lớn chuyên gia khác nhau, điều kiện phòng thí nghiệm không hoàn toàn giống nhau giữa các trung tâm, và sự khác biệt về điều kiện như môi trường và vật tư tiêu hao được sử dụng.
Các nghiên cứu trong tương lai có thể mở rộng để bao gồm và so sánh thông tin về tỷ lệ trẻ sinh sống ở ba nhóm nghiên cứu. Ngoài ra, cần xem xét yếu tố mẫu tinh trùng một cách rộng hơn, bao gồm cả sự phân mảnh DNA tinh trùng, để xác định ảnh hưởng đến thành công của chu kỳ hiến tặng noãn. Nghiên cứu cũng có thể tăng số lượng noãn thu được trong mỗi nhóm, cũng như số lượng phương pháp rã đông được sử dụng. Các nghiên cứu gần đây cũng đã chỉ ra khả năng giảm thời gian thủy tinh hóa và rã đông, chẳng hạn như phương pháp rã đông siêu nhanh, có thể cải thiện kết quả sinh sản.

Nguồn: Troncoso-Perez, P., Gonzalez-Navas, C., Coccia, M. E., Fucci, R., Falcone, P., Bertocci, F., Picone, R., Sosa-Rosales, D. F., Lopez-Perez, N., Criado-Scholz, E., & Vilches-Ferron, M. A. (2025). Application of a single “Universal warming protocol” for vitrified donor oocytes: A multicenter study. Journal of Assisted Reproduction and Genetics, 42(4), 1331. https://doi.org/10.1007/s10815-025-03423-7


Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 11 . 2025 (9:30 - 12:00), khách sạn Equatorial (số ...

Năm 2020

New World Saigon Hotel, thứ bảy ngày 17 tháng 01 năm 2026

Năm 2020

Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TP. Hồ Chí Minh (HOSREM) sẽ ...

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Ấn phẩm CẬP NHẬT KIẾN THỨC VỀ QUẢN LÝ SỨC KHỎE TUỔI MÃN ...

Y học sinh sản được phát ngày ngày 21 . 9 . 2025 và gởi đến ...

Cẩm nang Hội chứng buồng trứng đa nang được phát hành online ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK