Hội Nội tiết sinh sản và Vô sinh TPHCM
HOSREM - Ho Chi Minh City Society for Reproductive Medicine

Tin tức
on Monday 13-10-2025 5:03am
Viết bởi: ngoc
Danh mục: Tin quốc tế

CN. Nguyễn Hoàng Bảo Ngân – IVF Tâm Anh

Công nghệ hỗ trợ sinh sản (assisted reproductive technology - ART) đã có những tiến bộ đáng kể, đặc biệt là phương pháp đông lạnh - thủy tinh hóa, được chứng minh là có hiệu quả đối với phôi nang. Tuy nhiên, vẫn cần cải thiện kỹ thuật này, vì các chất bảo vệ đông lạnh (cryoprotective agents - CPAs) dùng trong thủy tinh hóa có thể ảnh hưởng xấu đến chuyển hóa tế bào, tăng stress oxy hóa và rối loạn biểu sinh.
Thời gian phôi tiếp xúc với CPA là yếu tố quan trọng. Thời gian quá ngắn làm CPA không đủ thẩm thấu, quá dài có thể gây tổn thương tế bào. Nghiên cứu trước cho thấy thời gian cân bằng dao động từ 2 đến 15 phút, nhưng chưa có sự thống nhất về mốc tối ưu. Một số nghiên cứu gần đây đề xuất thời gian 8–11 phút là đủ để thủy tinh hóa hiệu quả. Ngoài ra, nghiên cứu trên mô hình bò chỉ ra rằng thời gian cân bằng ngắn hơn (3 phút) giúp giảm tỷ lệ apoptosis. Do đó, nghiên cứu tiến hành so sánh hai khoảng thời gian cân bằng (7–8 phút và 9–10 phút) nhằm tìm mối liên quan với tỷ lệ sống, thai kỳ, kết quả lâm sàng và sảy thai.
Phương pháp
Đây là nghiên cứu tiến cứu được thực hiện tháng 3/2018 đến tháng 5/2022, gồm 585 ca chuyển phôi đông lạnh (frozen embryo transfer - FET). Các bệnh nhân nữ <35 tuổi, với nhiều nguyên nhân vô sinh khác nhau, được đưa vào nghiên cứu. Phôi được tạo ra bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) tiêu chuẩn hoặc tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (intracytoplasmic sperm injection - ICSI). Các phôi nang chất lượng tốt (theo điểm Gardner, loại trừ điểm CC, BC, CB) được đông lạnh vào ngày 5 sau khi thụ tinh. Tổng cộng có 831 phôi nang nở rộng được chia thành hai nhóm dựa trên thời gian cân bằng: nhóm A (7-8 phút, n=413) và nhóm B (9-10 phút, n=418). Tất cả các phôi nang (độ nở rộng ≥3) đều được làm sụp khoang nhân tạo bằng xung laser trước khi đông lạnh. Các kết quả chính được nghiên cứu là tỷ lệ trẻ sinh sống (live birth rate - LBR) và tỷ lệ sẩy thai. Các kết quả thứ cấp bao gồm tỷ lệ sống sau rã và tỷ lệ thai lâm sàng (clinical pregnancy rate - CPR).
Kết quả
Tỷ lệ sống sau rã là 99,3% (825/831). Nhìn chung, CPR/chuyển phôi là 68,5%, CBR là 61,0% và tỷ lệ sẩy thai là 11,0%. Bệnh nhân không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm về tuổi trung bình, số lượng phôi nang được chuyển, FSH cơ bản, BMI, thời gian vô sinh hoặc độ dày nội mạc tử cung.
Tỷ lệ sống tương tự sau rã (nhóm A: 99,3% và nhóm B: 99,3%), cũng như CPR tương tự (A: 69,1% so với B: 68,0%). LBR hơi khác nhau giữa các nhóm (A: 63,8% so với B: 58,3%). Hơn nữa, tỷ lệ đa thai tương đương giữa hai nhóm (nhóm A: 20,8% so với nhóm B: 23,5%). Tuy nhiên, về tỷ lệ sẩy thai chung, dữ liệu cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) nghiêng về nhóm A (7,6%) so với nhóm B (14,2%). Tỷ lệ sẩy thai trong thời gian nghiên cứu đối với việc thay thế phôi tươi là 15,6%, tương đương với tỷ lệ quan sát được ở nhóm B.
Các kết quả sơ sinh (giới tính, tuổi thai, cân nặng khi sinh, sinh non, thai to, phương pháp sinh và dị tật bẩm sinh) tương tự nhau giữa hai nhóm. Tuy nhiên, tỷ lệ trẻ nhẹ cân cao hơn ở nhóm B (25,1%) so với nhóm A (17,0%), nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p=0,052).
Bàn luận
Nghiên cứu này chỉ ra thời gian cân bằng ngắn hơn (7-8 phút) dẫn đến tỷ lệ sẩy thai thấp hơn đáng kể so với thời gian tiếp xúc 9-10 phút. Điều này cho thấy việc kéo dài thời gian tiếp xúc với ES lên 9-10 phút không mang lại lợi ích nào thêm cho quá trình thủy tinh hóa. Các nhà nghiên cứu suy đoán rằng cơ chế có thể liên quan đến phân mảnh DNA, bất thường thoi vô sắc, hoặc stress thẩm thấu và oxy hóa do tiếp xúc với nồng độ cao CPAs.
Ngoài ra, kỹ thuật sụp khoang phôi nhân tạo được áp dụng trong nghiên cứu này rất quan trọng vì điều này cải thiện dòng chảy của CPAs vào phôi và giảm nguy cơ hình thành tinh thể đá, từ đó nâng cao tỷ lệ sống, CPR và tỷ lệ làm tổ.

Kết luận:
Thời gian cân bằng ngắn hơn (7–8 phút) và sụp khoang phôi trước thủy tinh hóa có thể giảm tỷ lệ sảy thai và trẻ nhẹ cân. Tuy nhiên, do mẫu không đồng nhất, cần thêm nghiên cứu quy mô lớn để xác nhận hiệu quả của việc rút ngắn thời gian tiếp xúc ES.

Nguồn: Sciorio, R., Zhang, L., Li, Y., & Li, N. (2025). A shorter pre-vitrification equilibration time for laser-collapsed human blastocysts is associated with a lower miscarriage rate in ART treatments. JBRA Assisted Reproduction, 29(2), 323. https://doi.org/10.5935/1518-0557.20250013


Các tin khác cùng chuyên mục:
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020

Thứ bảy ngày 22 . 11 . 2025 (9:30 - 12:00), khách sạn Equatorial (số ...

Năm 2020

New World Saigon Hotel, thứ bảy ngày 17 tháng 01 năm 2026

Năm 2020

Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TP. Hồ Chí Minh (HOSREM) sẽ ...

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Ấn phẩm CẬP NHẬT KIẾN THỨC VỀ QUẢN LÝ SỨC KHỎE TUỔI MÃN ...

Y học sinh sản được phát ngày ngày 21 . 9 . 2025 và gởi đến ...

Cẩm nang Hội chứng buồng trứng đa nang được phát hành online ...

Hội viên liên kết Bạch kim 2024
Hội viên liên kết Vàng 2024
Hội viên liên kết Bạc 2024
FACEBOOK