Suy giáp ở phụ nữ có thai thường đưa đến nhiều hậu quả xấu cho thai nhi, nguy hiểm nhất là đứa trẻ sinh ra bị đần độn và kém phát triển về thể chất, vì thế đòi hỏi phải được phát hiện sớm và điều trị kịp thời cả trước và trong thời gian mang thai.
Tuy nhiên do bệnh thường tiến triển âm thầm, khó nhận biết hoặc do nhiều cơ sở y tế không có khả năng làm các xét nghiệm tầm soát nên bệnh hay bị bỏ sót.
Nguyên nhân phổ biến gây suy giáp trong thời kỳ mang thai
Có rất nhiều nguyên nhân gây suy giáp và tất cả đều có thể xảy ra ở các phụ nữ mang thai. Nguyên nhân phổ biến nhất là do viêm tuyến giáp mạn tính có tính chất tự miễn hay còn gọi là bệnh Hashimoto (mang tên của vị bác sĩ người Nhật Bản đã phát hiện ra căn bệnh này). Bệnh Hashimoto có thể có từ trước khi mang thai (nhưng do là bệnh mạn tính, diễn biến từ từ nên có thể nhiều người không biết) hoặc cũng có thể xuất hiện lần đầu tiên khi có thai.
- Các nguyên nhân gây suy giáp khác có thể là do đã bị cắt tuyến giáp hoặc do điều trị iode phóng xạ (I131) hoặc do đang điều trị basedow bằng thuốc kháng giáp trạng tổng hợp liều quá cao.
- Những phụ nữ có nguy cơ cao bị suy giáp trong thời gian mang thai gồm đã hoặc đang điều trị cường giáp (bằng thuốc kháng giáp trạng tổng hợp, phẫu thuật, iode phóng xạ), có tiền sử gia đình nhiều người bị bệnh tuyến giáp, người có bướu cổ to, người đã bị viêm tuyến giáp hoặc suy giáp trong lần có thai trước... Lưu ý là ở những vùng bị thiếu iốt, thai nghén có thể làm bướu cổ to lên.
Người mẹ bị suy giáp có những nguy cơ gì ?
Nếu không được điều trị hoặc điều trị không đầy đủ thì người mẹ có thể bị tất cả các biến chứng cổ điển của suy giáp như thiếu máu, đau yếu cơ, suy tim sung huyết, chậm chạp, táo bón... Ngoài ra họ còn có nguy cơ bị các biến chứng liên quan đến sản khoa khác như tiền sản giật, bất thường bánh nhau, đẻ con nhẹ cân và chảy máu nhiều sau đẻ. Những biến chứng này có xu hướng phổ biến ở các phụ nữ bị suy giáp nặng, còn đa số các trường hợp suy giáp nhẹ có thể không có triệu chứng gì đặc biệt hoặc rất nhẹ và khó phát hiện được.
Thai nhi của các bà mẹ bị suy giáp có những nguy cơ gì?
- Tuyến giáp của thai nhi chỉ được hình thành và bắt đầu hoạt động ở tuần thứ 10 - 12 của thai kỳ, điều này có nghĩa là trong 12 tuần đầu (3 tháng đầu), thai nhi phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn hormon tuyến giáp từ người mẹ. Do đó nếu mẹ bị suy giáp thì con cũng sẽ bị suy giáp. Ngoài ra, thai nhi còn phụ thuộc vào lượng iode (cần cho tổng hợp hormon tuyến giáp) do người mẹ cung cấp.
- Hormon tuyến giáp có vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự phân chia, hình thành các cơ quan cũng như sự phát triển bộ não của trẻ. Những đứa trẻ bị suy giáp bẩm sinh có thể có những bất thường trầm trọng cả về sự phát triển trí tuệ và thể chất nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời. Hiện nay ở một số bệnh viện lớn đã có chương trình sàng lọc bệnh tuyến giáp ở trẻ sơ sinh, kết quả cho thấy phần lớn những bất thường này là có thể phòng ngừa được nếu được phát hiện và điều trị sớm bằng bổ sung hormon tuyến giáp ngay sau khi sinh.
- Cũng chính vì các nguy cơ trầm trọng trên mà hiện nay nhiều thầy thuốc khuyến cáo các phụ nữ có thai nên kiểm tra TSH khi có kế hoạch có thai và trong 3 tháng đầu của thai kỳ mà tốt nhất là ngay khi phát hiện có thai. Với những người đã có suy giáp và đang điều trị bằng hormon tuyến giáp (levothyroxin) thì cần làm xét nghiệm FT4 và TSH ngay khi biết có thai và hàng tháng trong suốt thời gian mang thai vì nhu cầu hormon tuyến giáp tăng lên trong thời kỳ mang thai, đòi hỏi phải tăng liều thuốc điều trị. Nếu những người chưa mắc bệnh tuyến giáp và xét nghiệm TSH lần đầu sau khi có thai là bình thường thì hầu như không cần kiểm tra lại nữa. Tuy nhiên, họ nên thảo luận kỹ với thầy thuốc để được đánh giá một cách tổng thể, tránh bỏ sót các nguy cơ.
Những người bị suy giáp nên được điều trị như thế nào trong khi mang thai?
Cách thức điều trị suy giáp ở những phụ nữ mang thai cũng giống như những người không mang thai, bằng cách bổ sung dạng hormon tuyến giáp tổng hợp. Tốt nhất và an toàn nhất là các phụ nữ có thai được điều chỉnh liều tối ưu, đạt bình giáp từ trước khi có thai. Họ cần được xét nghiệm chức năng tuyến giáp (FT4 và TSH) mỗi 6-8 tuần (mỗi lần khi đi khám thai), nhưng nếu phải thay đổi liều levothyroxin thì nên kiểm tra lại sau 4 tuần. Mục tiêu là đảm bảo nồng độ FT4 và TSH phải trong giới hạn bình thường. Ngay sau khi đẻ, người bệnh nên quay trở lại liều như trước khi có thai. Cần biết rằng các vitamin có chứa sắt dùng trước khi sinh có thể làm giảm sự hấp thu hormon tuyến giáp ở đường tiêu hóa. Vì thế 2 thuốc này nên được dùng cách nhau ít nhất 2-3 giờ.
Theo ThS Nguyễn Quang Bảy ( Báo Sức Khỏe và Đời Sống)
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...