CNSH Tăng Lê Thái Ngọc – IVFMD Tân Bình
Giới thiệu chung
Theo thống kê, yếu tố nam giới liên quan đến khoảng 50% các trường hợp vô sinh hiện nay. Vô sinh nam đã được liên kết với các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được như dinh dưỡng, béo phì, hút thuốc lá, uống rượu và thiếu hoạt động thể chất (PA).
Tập thể dục (EX) mang lại nhiều lợi ích sức khỏe đã được chứng minh, bao gồm giảm nguy cơ bệnh tim mạch và phòng ngừa các bệnh mạn tính. Các nghiên cứu trước đây cho thấy nam giới ít vận động dễ mắc phải tình trạng suy giảm testosterone khởi phát muộn, đặc trưng bởi nồng độ testosterone thấp, giảm ham muốn, rối loạn cương và giảm chất lượng tinh trùng. Trong khi đó, nam giới có hoạt động thể chất cho thấy có tỉ lệ tinh trùng di động cao hơn. Tập thể dục mức độ vừa phải cũng có thể làm chậm quá trình viêm do lão hóa và giảm tổn thương DNA trong tinh trùng. Tuy nhiên, mức độ hoạt động thể chất quá cao lại liên quan đến giảm chất lượng tinh dịch. Bài tổng quan này nhằm đánh giá mối liên hệ giữa hoạt động thể chất và sinh lý bệnh sinh sản nam, các thông số tinh dịch và tỉ lệ có thai.
Các nghiên cứu tiền lâm sàng
Nhiều nghiên cứu trên động vật đã khảo sát mối liên hệ giữa EX và chức năng sinh sản. Một nghiên cứu gần đây trên mô hình chuột cho thấy bơi lội cường độ vừa phải có thể làm giảm tổn thương oxy hóa tinh hoàn do isoproterenol. Trái lại, việc bơi lội cường độ cao kéo dài ở chuột (bơi 3 giờ mỗi ngày, 5 ngày/tuần trong 4 tuần) gây stress oxy hóa nghiêm trọng, giảm đường kính ống sinh tinh, giảm testosterone huyết tương, và rối loạn quá trình sinh tinh. Ngoài ra, khi bổ sung acid alpha-lipoic và N-acetylcysteine, những rối loạn sinh tinh và steroid do bơi lội cường độ cao được cải thiện, cho thấy vai trò của stress oxy hóa trong cơ chế tổn thương.
Các yếu tố khác như chế độ ăn và béo phì cũng tương tác với PA trong điều hòa sinh sản. Ở chuột đực béo phì, tập thể dục cường độ vừa phải cải thiện chất lượng tinh trùng, giảm viêm và stress oxy hóa, tăng biểu hiện enzyme tổng hợp testosterone. Ngược lại, nhóm tập cường độ cao mặc dù vẫn giảm mỡ cơ thể nhưng không cải thiện được các thông số tinh dịch, một lần nữa cho thấy cường độ tập luyện cao có thể gây hại. Khi kết hợp với chế độ ăn kiêng, hoạt động thể chất vừa phải cải thiện hoạt động sinh tinh và tỷ lệ testosterone/estradiol trong tinh hoàn. Một nghiên cứu khác cũng ghi nhận rằng tập thể dục mức độ thấp đến vừa ở chuột đực có thể đảo ngược sự tích tụ mô mỡ và tổn thương hệ sinh sản do chế độ ăn giàu chất béo.
Ảnh hưởng của hoạt động thể chất đến các thông số tinh dịch
Dữ liệu từ các nghiên cứu ngẫu nhiên và quan sát cho thấy mối liên hệ không đồng nhất giữa PA và chất lượng tinh dịch. Một RCT kéo dài 24 tuần cho thấy chế độ luyện tập cường độ cao ngắt quãng (high-intensity interval training - HIIT) giúp giảm cytokine gây viêm, stress oxy hóa, cải thiện DNA tinh trùng và tăng tỉ lệ có thai. Một số nghiên cứu quan sát cũng xác nhận hành vi ít vận động và tỉ lệ mỡ cơ thể cao hơn có liên quan đến vô sinh nam.
Tuy nhiên, loại hình hoạt động thể chất cụ thể cũng đóng vai trò quan trọng trong sức khoẻ sinh sản ở nam giới. Dữ liệu từ một nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu ghi nhận: nam giới thuộc nhóm tập thể dục ngoài trời >1,5 h/tuần hoặc nâng tạ >2 h/tuần có mật độ tinh trùng cao hơn 42% và 25% so với nhóm ít vận động. Tuy nhiên, đạp xe >1,5 h/tuần làm giảm 34% mật độ tinh trùng và đạp xe >5 h/tuần liên quan đến giảm mật độ và số lượng tinh trùng di động. Trong một nghiên cứu gồm 454 nam giới từ các cặp đôi vô sinh, không tìm thấy mối liên hệ giữa mức độ hoạt động thể chất chung và các đặc điểm tinh dịch. Không ghi nhận sự liên quan giữa chạy bộ, đạp xe, hoặc các môn thể thao vợt với chất lượng tinh trùng. Tuy nhiên, người tập nâng tạ có mật độ tinh trùng thấp hơn đáng kể và tổng số tinh trùng cũng thấp hơn so với người không tập luyện thường xuyên.
Một số nghiên cứu trên dân số khỏe mạnh không vô sinh cho kết quả trái chiều: một nghiên cứu không tìm thấy mối liên hệ giữa PA và các thông số tinh dịch, trong khi nghiên cứu khác tại Trung Quốc ghi nhận tăng tỉ lệ tinh trùng di động tổng và di động tiến tới ở nhóm có mức METs (chỉ số đo hoạt động thể chất) cao. Cuối cùng, nghiên cứu trên vận động viên đua xe đạp cho thấy 16 tuần tập luyện cường độ cao làm giảm đáng kể thể tích tinh dịch, nồng độ tinh trùng, khả năng di động, đồng thời tăng ROS và MDA, giảm SOD, catalase và TAC. Tóm lại, dù dữ liệu còn mâu thuẫn, một số nghiên cứu cho thấy hoạt động thể chất có thể cải thiện chất lượng tinh dịch ở nam giới. Tuy nhiên, hoạt động thể chất quá mức hoặc cường độ cao có thể gây ảnh hưởng tiêu cực.
Hoạt động thể chất và tỉ lệ có thai
Trong khi mối liên hệ giữa hoạt động thể chất (PA) và chất lượng tinh dịch đã được nghiên cứu khá đầy đủ, thì mối liên hệ giữa PA và tỷ lệ có thai vẫn chưa được xác định rõ ràng. Tuy nhiên, một số nghiên cứu đã khảo sát mối tương quan giữa mức độ PA và kết quả sinh sản. Một nghiên cứu đoàn hệ cho thấy các cặp cần can thiệp ART dành ít thời gian hơn cho PA (thấp hơn 73 phút/tuần mỗi cặp) so với nhóm có thai tự nhiên, tuy nhiên không có mối liên hệ rõ ràng giữa thời gian tập luyện và khả năng thụ thai. Một RCT khác cho thấy sau 24 tuần tập luyện cường độ cao, tỉ lệ có thai ở nhóm EX là 16,5% (OR=6.0), tỷ lệ sinh sống ước tính là 77,4%. Bên cạnh đó, tập luyện aerobic + kháng lực giúp giảm đáng kể cytokine viêm (IL-1, IL-6, IL-8, TNF-α), stress oxy hóa (SOD, MDA, 8-isoprostane), và tăng cường hệ thống chống oxy hóa (SOD, catalase). Các thay đổi này có tương quan với cải thiện rõ rệt về chất lượng tinh trùng, DNA tinh trùng và tỉ lệ mang thai. Tỉ lệ có thai tăng 36,2% (72/199), tỉ lệ sinh sống đạt 81,9. Các dữ liệu trên đã cung cấp thêm bằng chứng cho giả thuyết các thay đổi trong chỉ số tinh dịch, tính toàn vẹn DNA, chất trung gian viêm và trạng thái oxy hóa khử sau can thiệp vận động đều có tương quan với tỉ lệ có thai ở các cặp vô sinh.
Ngoài các nghiên cứu tổng quát, một số thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng đã chứng minh hiệu quả của các hình thức vận động đối với khả năng sinh sản ở nam giới vô sinh do bất thường tinh trùng cụ thể. Tập luyện aerobic mức độ vừa trong 24 tuần giúp tăng đáng kể tỉ lệ có thai và sinh sống ở bệnh nhân mắc các dạng bất thường như asthenozoospermia, asthenoteratozoospermia, oligospermia và oligoasthenozoospermia, với chỉ số OR khá cao (OR 59,8–186,7). Tập kháng lực đơn thuần cũng cho thấy cải thiện rõ rệt về viêm, stress oxy hóa, chất lượng tinh trùng, tỉ lệ có thai (OR = 17,7) và sinh sống (OR = 16,2). Tương tự, chương trình HIIT kéo dài 24 tuần cũng giúp tăng tỉ lệ mang thai và sinh sống ở các nhóm bệnh nhân asthenozoospermia và oligospermia. Phân tích gần đây cho thấy các chương trình tập luyện hiệu quả nhất trong cải thiện tỉ lệ có thai gồm: aerobic + kháng lực (RR=27,81), aerobic liên tục vừa phải (RR=26,67), kháng lực đơn thuần (RR=12,54), aerobic cường độ cao (RR=5,55) và HIIT (RR=4,63).
Kết luận
Tài liệu y văn hiện tại cho thấy hoạt động thể chất có liên quan đến chất lượng tinh dịch và một phần kết quả sinh sản ở nam giới vô sinh. Một số loại hình tập luyện cải thiện tỉ lệ có thai, nhưng không phải tất cả đều cải thiện chất lượng tinh trùng. Các bằng chứng cũng chỉ ra rằng tập luyện quá sức hoặc một số loại hình như đạp xe, nâng tạ có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sinh sản nam. Do số lượng thử nghiệm ngẫu nhiên còn hạn chế, cần thêm các nghiên cứu về mối liên hệ giữa các loại hình, cường độ tập luyện và kết quả sinh sản ở nam giới.
Nguồn: Belladelli, F., Basran, S., & Eisenberg, M. L. (2023). Male fertility and physical exercise. The World Journal of Men's Health, 41(3), 482.











Ngày 9 - 10 . 8 . 2025, Vinpearl Landmark 81 (Số 720A Điện BIên Phủ, ...
Vinpearl Landmark 81, chiều thứ bảy 9 . 8 . 2025 (13:00 - 16:30)
Chủ nhật ngày 21 . 9 . 2025, Caravelle Hotel Saigon, Số 19 - 23 Công ...

Sách ra mắt ngày 11 . 7 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...

Y học sinh sản số 73 (Quý I . 2025) ra mắt ngày 20 . 3 . 2025 và ...