Tin tức
on Tuesday 05-08-2025 12:12pm
Danh mục: Tin quốc tế
CN. Đặng Ngọc Minh Thư – IVF Tâm Anh
Giới thiệu
Với sự áp dụng rộng rãi phương pháp đông lạnh phôi, việc lựa chọn phôi rã đông đã trở thành một chủ đề đang được quan tâm. Trong quá trình thủy tinh hóa, việc sử dụng các chất bảo quản lạnh dẫn đến sự co lại của phôi nang do mất nước, sau đó giãn nở trở lại sau khi thay thế nước trong quá trình rã đông. Các thông số liên quan đến mức độ tái nở rộng của phôi trong vòng 2-4 giờ sau khi rã đông được cho là có giá trị tiên lượng kết quả của một chu kỳ chuyển phôi đông lạnh-rã đông (Frozen-thawed embryo transfer – FET).
Sự tái nở rộng của phôi đóng vai trò là dấu hiệu hình thái cho thấy khả năng sống của phôi vượt trội, có tương quan thuận với tỉ lệ làm tổ, thai lâm sàng và trẻ sinh sống cao hơn. Các bằng chứng hiện tại đều công nhận rằng cần ưu tiên chuyển phôi nang đông lạnh đã tái nở rộng để tối ưu hiệu quả điều trị. Ngược lại, những phôi bị co, không thể nở rộng sau rã đông thường không được sử dụng vì hiệu quả lâm sàng thấp. Tuy nhiên, điều quan trọng cần thừa nhận là những phôi nang không nở rộng lại sau 3 đến 4 giờ rã đông có thể có giá trị đáng kể đối với một số nhóm bệnh nhân cụ thể, đặc biệt là nhóm tuổi mẹ cao, phôi chất lượng kém ở nhiều chu kỳ và các yếu tố vô sinh nghiêm trọng khác. Đối với những bệnh nhân có ít hoặc không có phôi nang chất lượng tốt, những phôi nang không nở rộng lại này có thể được xem xét như một lựa chọn thứ cấp để chuyển phôi. Hiện nay, còn rất ít các nghiên cứu có hệ thống về hiệu quả lâm sàng của việc sử dụng phôi nang không nở rộng sau rã đông.
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đặt mục tiêu đánh giá kết quả thai kỳ và sơ sinh của những bệnh nhân vô sinh được chuyển đơn phôi nang đông lạnh-rã đông không nở rộng lại khoang phôi sau 3-4 giờ nuôi cấy. Những phát hiện của nghiên cứu này sẽ cung cấp những hiểu biết có giá trị cho các bác sĩ lâm sàng khi tư vấn cho bệnh nhân.
Vật liệu và phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu về việc chuyển đơn phôi nang, bao gồm 2765 chu kỳ FET có phôi nang tái nở rộng (nhóm đối chứng) và 431 chu kỳ FET có phôi nang không tái nở rộng (nhóm nghiên cứu) sau khoảng 3-4 giờ rã đông từ năm 2019 đến năm 2022. Tiêu chuẩn nhận là các bệnh nhân chuyển đơn phôi chu kỳ đầu tiên, không thực hiện PGT-A. Kết quả lâm sàng chính bao gồm: tỉ lệ làm tổ, thai sinh hóa, thai lâm sàng, thai ngoài tử cung, sảy thai, trẻ sinh sống và tuổi thai giữa các nhóm bệnh nhân.
Tất cả các phân tích thống kê đều được thực hiện bằng phần mềm SPSS phiên bản 26.0.
Kết quả
Đặc điểm nền bệnh nhân
Phân tích thống kê cho thấy sự khác biệt đáng kể trong một số thông số, bao gồm tuổi vợ, tuổi chồng, hội chứng buồng trứng đa nang, chuẩn bị nội mạc tử cung, mức độ nở rộng của khoang phôi, cấp độ phôi nang, cũng như ngày đông lạnh phôi nang (tất cả P<0,05). Ngoài ra, không có sự khác biệt đáng kể nào được quan sát thấy đối với các biến khác (P>0,05), bao gồm BMI, thời gian vô sinh, số lần sinh, số lần sinh đủ tháng trước đó, số chu kỳ chuyển phôi trước đó không thành công, số chu kỳ không có phôi khả dụng, vô sinh do yếu tố vòi trứng, lạc nội mạc tử cung, vô sinh do yếu tố nam và độ dày nội mạc tử cung vào ngày chuyển phôi. Sau khi loại bỏ các yếu tố gây nhiễu, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nào về các đặc điểm nền của bệnh nhân ở cả 2 nhóm (tất cả P>0,05).
Kết quả thai kỳ
Phân tích cho thấy không có sự khác biệt đáng kể nào về tỉ lệ mang thai ngoài tử cung, sẩy thai, đa thai, sinh đôi và tuổi thai (P>0,05). Tuy nhiên, tỉ lệ làm tổ, thai sinh hóa, thai lâm sàng và trẻ sinh sống thấp hơn đáng kể ở nhóm chuyển phôi nang không nở rộng so với nhóm chuyển phôi nang tái nở rộng, với các kết quả sau: tỉ lệ làm tổ (22,3% so với 52,0%; P<0,001), thai sinh hóa (29,5% so với 60,7%; P<0,001), thai lâm sàng (21,6% so với 51,9%; P<0,001) và trẻ sinh sống (16,9% so với 41,6%; P<0,001).
Kết quả sơ sinh
Để đánh giá sâu hơn giá trị lâm sàng của phôi nang rã đông không tái nở rộng, nhóm nghiên cứu đã tiến hành phân tích kết quả sơ sinh ở những bệnh nhân không có phôi nang không tái nở rộng. Tổng cộng 1.250 trẻ sơ sinh sống được đưa vào nghiên cứu này, bao gồm 74 trẻ sơ sinh có nguồn gốc từ phôi nang đã rã đông không tái nở rộng và 1.176 trường hợp từ phôi nang tái nở rộng khoang phôi. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm về cân nặng khi sinh, cân nặng khi sinh thấp và dị tật bẩm sinh (P>0,05). Ngoài ra, không có trường hợp tử vong sơ sinh sớm nào được ghi nhận ở cả hai nhóm.
Về dị tật bẩm sinh, quan sát thấy 34 trẻ sơ sinh bị dị tật bẩm sinh trong nhóm chuyển phôi nang tái nở rộng, và một trường hợp lỗ tiểu thấp được ghi nhận trong số 74 trẻ sơ sinh trong nhóm chuyển phôi nang không tái nở rộng. Tỉ lệ dị tật ở nhóm chuyển phôi nang không tái nở rộng là khoảng 1,4%, thấp hơn nhóm đối chứng. Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể nào về tỉ lệ dị tật giữa hai nhóm, sau khi điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu (P>0,05).
Bàn luận
Việc hiểu rõ tác động của việc tái nở rộng sau khi rã đông đối với kết quả lâm sàng sẽ hỗ trợ việc đưa ra các quyết định hiệu quả về mặt chi phí liên quan đến việc bảo quản phôi nang và sử dụng tối ưu phôi nang đông lạnh.
Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá ý nghĩa lâm sàng của việc chuyển phôi nang không nở rộng sau khi rã đông. Kết quả nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu cho thấy mặc dù việc chuyển phôi nang không tái nở rộng có tỉ lệ thành công thấp hơn so với phôi nang tái nở rộng, nhưng vẫn mang lại tỉ lệ mang thai và trẻ sinh sống có ý nghĩa lâm sàng. Hơn nữa, việc chuyển phôi nang không tái nở rộng không làm tăng nguy cơ trẻ nhẹ cân khi sinh, dị tật bẩm sinh hoặc tử vong sơ sinh sớm. Những phát hiện này cho thấy phôi nang có khoang phôi không nở lại có thể được xem xét để chuyển, đặc biệt đối với phụ nữ vô sinh có số lượng phôi nang hoặc phôi giai đoạn phân chia hạn chế. Nghiên cứu này được thiết kế để đánh giá giá trị tiềm năng của phôi nang không giãn nở lại khoang phôi sau khi rã đông cho ứng dụng lâm sàng và cung cấp thông tin có giá trị để so sánh kết quả sơ sinh giữa chuyển phôi nang không nở rộng lại và chuyển phôi nang nở rộng lại.
Nghiên cứu này cũng có một số hạn chế. Hạn chế đầu tiên liên quan đến quy mô mẫu tương đối nhỏ. Do thực hành loại bỏ phôi nang rã đông không có sự tái nở rộng khoang phôi, nghiên cứu này chỉ giới hạn ở 74 trẻ sơ sinh. Do đó, khả năng khái quát hóa các kết quả sơ sinh liên quan đến phôi nang không tái nở rộng bị hạn chế. Thứ hai, sự thiếu hụt của dữ liệu có sẵn liên quan đến việc chấm dứt thai kỳ trong giai đoạn phát triển sớm, cũng như sự hiện diện của các bất thường nhiễm sắc thể thông qua chẩn đoán trước sinh, có thể dẫn đến việc đánh giá thấp tỉ lệ mắc thực sự của các dị tật bẩm sinh. Bất chấp những hạn chế này, nghiên cứu này vẫn có ý nghĩa và tầm quan trọng vì nó nhấn mạnh giá trị lâm sàng của phôi nang đông lạnh-rã đông mà không cần tái nở rộng lại khoang phôi trong các điều kiện điều trị thực tế.
Nguồn: Du S, Dong J, Zhao X, Zhao L, Yin M, Li M, Li W, Wu L, Fan Y, Li B. Pregnancy and neonatal outcomes of blastocysts without blastocoele re-expansion in FET patients: are they of clinical value? J Assist Reprod Genet. 2025 May 21. doi: 10.1007/s10815-025-03506-5. Epub ahead of print. PMID: 40399708.
Giới thiệu
Với sự áp dụng rộng rãi phương pháp đông lạnh phôi, việc lựa chọn phôi rã đông đã trở thành một chủ đề đang được quan tâm. Trong quá trình thủy tinh hóa, việc sử dụng các chất bảo quản lạnh dẫn đến sự co lại của phôi nang do mất nước, sau đó giãn nở trở lại sau khi thay thế nước trong quá trình rã đông. Các thông số liên quan đến mức độ tái nở rộng của phôi trong vòng 2-4 giờ sau khi rã đông được cho là có giá trị tiên lượng kết quả của một chu kỳ chuyển phôi đông lạnh-rã đông (Frozen-thawed embryo transfer – FET).
Sự tái nở rộng của phôi đóng vai trò là dấu hiệu hình thái cho thấy khả năng sống của phôi vượt trội, có tương quan thuận với tỉ lệ làm tổ, thai lâm sàng và trẻ sinh sống cao hơn. Các bằng chứng hiện tại đều công nhận rằng cần ưu tiên chuyển phôi nang đông lạnh đã tái nở rộng để tối ưu hiệu quả điều trị. Ngược lại, những phôi bị co, không thể nở rộng sau rã đông thường không được sử dụng vì hiệu quả lâm sàng thấp. Tuy nhiên, điều quan trọng cần thừa nhận là những phôi nang không nở rộng lại sau 3 đến 4 giờ rã đông có thể có giá trị đáng kể đối với một số nhóm bệnh nhân cụ thể, đặc biệt là nhóm tuổi mẹ cao, phôi chất lượng kém ở nhiều chu kỳ và các yếu tố vô sinh nghiêm trọng khác. Đối với những bệnh nhân có ít hoặc không có phôi nang chất lượng tốt, những phôi nang không nở rộng lại này có thể được xem xét như một lựa chọn thứ cấp để chuyển phôi. Hiện nay, còn rất ít các nghiên cứu có hệ thống về hiệu quả lâm sàng của việc sử dụng phôi nang không nở rộng sau rã đông.
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả đặt mục tiêu đánh giá kết quả thai kỳ và sơ sinh của những bệnh nhân vô sinh được chuyển đơn phôi nang đông lạnh-rã đông không nở rộng lại khoang phôi sau 3-4 giờ nuôi cấy. Những phát hiện của nghiên cứu này sẽ cung cấp những hiểu biết có giá trị cho các bác sĩ lâm sàng khi tư vấn cho bệnh nhân.
Vật liệu và phương pháp
Nghiên cứu hồi cứu về việc chuyển đơn phôi nang, bao gồm 2765 chu kỳ FET có phôi nang tái nở rộng (nhóm đối chứng) và 431 chu kỳ FET có phôi nang không tái nở rộng (nhóm nghiên cứu) sau khoảng 3-4 giờ rã đông từ năm 2019 đến năm 2022. Tiêu chuẩn nhận là các bệnh nhân chuyển đơn phôi chu kỳ đầu tiên, không thực hiện PGT-A. Kết quả lâm sàng chính bao gồm: tỉ lệ làm tổ, thai sinh hóa, thai lâm sàng, thai ngoài tử cung, sảy thai, trẻ sinh sống và tuổi thai giữa các nhóm bệnh nhân.
Tất cả các phân tích thống kê đều được thực hiện bằng phần mềm SPSS phiên bản 26.0.
Kết quả
Đặc điểm nền bệnh nhân
Phân tích thống kê cho thấy sự khác biệt đáng kể trong một số thông số, bao gồm tuổi vợ, tuổi chồng, hội chứng buồng trứng đa nang, chuẩn bị nội mạc tử cung, mức độ nở rộng của khoang phôi, cấp độ phôi nang, cũng như ngày đông lạnh phôi nang (tất cả P<0,05). Ngoài ra, không có sự khác biệt đáng kể nào được quan sát thấy đối với các biến khác (P>0,05), bao gồm BMI, thời gian vô sinh, số lần sinh, số lần sinh đủ tháng trước đó, số chu kỳ chuyển phôi trước đó không thành công, số chu kỳ không có phôi khả dụng, vô sinh do yếu tố vòi trứng, lạc nội mạc tử cung, vô sinh do yếu tố nam và độ dày nội mạc tử cung vào ngày chuyển phôi. Sau khi loại bỏ các yếu tố gây nhiễu, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nào về các đặc điểm nền của bệnh nhân ở cả 2 nhóm (tất cả P>0,05).
Kết quả thai kỳ
Phân tích cho thấy không có sự khác biệt đáng kể nào về tỉ lệ mang thai ngoài tử cung, sẩy thai, đa thai, sinh đôi và tuổi thai (P>0,05). Tuy nhiên, tỉ lệ làm tổ, thai sinh hóa, thai lâm sàng và trẻ sinh sống thấp hơn đáng kể ở nhóm chuyển phôi nang không nở rộng so với nhóm chuyển phôi nang tái nở rộng, với các kết quả sau: tỉ lệ làm tổ (22,3% so với 52,0%; P<0,001), thai sinh hóa (29,5% so với 60,7%; P<0,001), thai lâm sàng (21,6% so với 51,9%; P<0,001) và trẻ sinh sống (16,9% so với 41,6%; P<0,001).
Kết quả sơ sinh
Để đánh giá sâu hơn giá trị lâm sàng của phôi nang rã đông không tái nở rộng, nhóm nghiên cứu đã tiến hành phân tích kết quả sơ sinh ở những bệnh nhân không có phôi nang không tái nở rộng. Tổng cộng 1.250 trẻ sơ sinh sống được đưa vào nghiên cứu này, bao gồm 74 trẻ sơ sinh có nguồn gốc từ phôi nang đã rã đông không tái nở rộng và 1.176 trường hợp từ phôi nang tái nở rộng khoang phôi. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm về cân nặng khi sinh, cân nặng khi sinh thấp và dị tật bẩm sinh (P>0,05). Ngoài ra, không có trường hợp tử vong sơ sinh sớm nào được ghi nhận ở cả hai nhóm.
Về dị tật bẩm sinh, quan sát thấy 34 trẻ sơ sinh bị dị tật bẩm sinh trong nhóm chuyển phôi nang tái nở rộng, và một trường hợp lỗ tiểu thấp được ghi nhận trong số 74 trẻ sơ sinh trong nhóm chuyển phôi nang không tái nở rộng. Tỉ lệ dị tật ở nhóm chuyển phôi nang không tái nở rộng là khoảng 1,4%, thấp hơn nhóm đối chứng. Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể nào về tỉ lệ dị tật giữa hai nhóm, sau khi điều chỉnh các yếu tố gây nhiễu (P>0,05).
Bàn luận
Việc hiểu rõ tác động của việc tái nở rộng sau khi rã đông đối với kết quả lâm sàng sẽ hỗ trợ việc đưa ra các quyết định hiệu quả về mặt chi phí liên quan đến việc bảo quản phôi nang và sử dụng tối ưu phôi nang đông lạnh.
Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá ý nghĩa lâm sàng của việc chuyển phôi nang không nở rộng sau khi rã đông. Kết quả nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu cho thấy mặc dù việc chuyển phôi nang không tái nở rộng có tỉ lệ thành công thấp hơn so với phôi nang tái nở rộng, nhưng vẫn mang lại tỉ lệ mang thai và trẻ sinh sống có ý nghĩa lâm sàng. Hơn nữa, việc chuyển phôi nang không tái nở rộng không làm tăng nguy cơ trẻ nhẹ cân khi sinh, dị tật bẩm sinh hoặc tử vong sơ sinh sớm. Những phát hiện này cho thấy phôi nang có khoang phôi không nở lại có thể được xem xét để chuyển, đặc biệt đối với phụ nữ vô sinh có số lượng phôi nang hoặc phôi giai đoạn phân chia hạn chế. Nghiên cứu này được thiết kế để đánh giá giá trị tiềm năng của phôi nang không giãn nở lại khoang phôi sau khi rã đông cho ứng dụng lâm sàng và cung cấp thông tin có giá trị để so sánh kết quả sơ sinh giữa chuyển phôi nang không nở rộng lại và chuyển phôi nang nở rộng lại.
Nghiên cứu này cũng có một số hạn chế. Hạn chế đầu tiên liên quan đến quy mô mẫu tương đối nhỏ. Do thực hành loại bỏ phôi nang rã đông không có sự tái nở rộng khoang phôi, nghiên cứu này chỉ giới hạn ở 74 trẻ sơ sinh. Do đó, khả năng khái quát hóa các kết quả sơ sinh liên quan đến phôi nang không tái nở rộng bị hạn chế. Thứ hai, sự thiếu hụt của dữ liệu có sẵn liên quan đến việc chấm dứt thai kỳ trong giai đoạn phát triển sớm, cũng như sự hiện diện của các bất thường nhiễm sắc thể thông qua chẩn đoán trước sinh, có thể dẫn đến việc đánh giá thấp tỉ lệ mắc thực sự của các dị tật bẩm sinh. Bất chấp những hạn chế này, nghiên cứu này vẫn có ý nghĩa và tầm quan trọng vì nó nhấn mạnh giá trị lâm sàng của phôi nang đông lạnh-rã đông mà không cần tái nở rộng lại khoang phôi trong các điều kiện điều trị thực tế.
Nguồn: Du S, Dong J, Zhao X, Zhao L, Yin M, Li M, Li W, Wu L, Fan Y, Li B. Pregnancy and neonatal outcomes of blastocysts without blastocoele re-expansion in FET patients: are they of clinical value? J Assist Reprod Genet. 2025 May 21. doi: 10.1007/s10815-025-03506-5. Epub ahead of print. PMID: 40399708.
Các tin khác cùng chuyên mục:












TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Khách sạn Equatorial, chủ nhật ngày 23 . 11 . 2025
Năm 2020
Ngày 9 - 10 . 8 . 2025, Vinpearl Landmark 81 (Số 720A Điện BIên Phủ, ...
Năm 2020
Vinpearl Landmark 81, chiều thứ bảy 9 . 8 . 2025 (13:00 - 16:30)
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI

Sách “Bài giảng Thực hành Sản khoa” do các giảng viên Bộ ...

Sách ra mắt ngày 11 . 7 . 2025 và gửi đến quý hội viên trước ...

Kính mời quý đồng nghiệp quan tâm đến hỗ trợ sinh sản tham ...
FACEBOOK