Tin tức
on Tuesday 21-09-2021 12:36am
Danh mục: Tin quốc tế
CNSH. Nguyễn Thị Cẩm Nhung – IVFMD Tân Bình
Hiện nay xét nghiệm di truyền phôi tiền làm tổ (PGT) đang là một phương pháp hiệu quả để thay thế các xét nghiệm chẩn đoán di truyền trước sinh, nhằm tránh các nguy cơ mắc bệnh di truyền cho thai nhi cũng như giảm các biến chứng sản khoa cho người mẹ. PGT giúp xác định các phôi có bất thường về số lượng, cấu trúc NST, các bất thường liên kết NST giới tính và đặc biệt là các bệnh lý rối loạn đơn gen. Cùng với sự phát triển của các kỹ thuật sinh học phân tử, ngày càng nhiều các bệnh lý đơn gen được phát hiện nhờ kỹ thuật PGT, điều này đã thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của xét nghiệm di truyền phôi tiền làm tổ đối với các bệnh đơn gen (PGT-M).
Bất thường nhiễm sắc thể là nguyên nhân thường gặp nhất gây sẩy thai và chiếm hơn 50% các trường hợp sẩy thai tự nhiên. Bên cạnh đó, lệch bội là một trong những nguyên nhân chính gây ra thất bại làm tổ. Tỷ lệ lệch bội tăng theo tuổi mẹ. Theo nghiên cứu của Ata B và cộng sự năm 2012 đã cho thấy phụ nữ 35–39 tuổi có tỷ lệ phôi lệch bội khoảng 50%, từ 40-42 tuổi tỉ lệ này tăng lên 66,7% và ở nhóm phụ nữ > 42 tuổi có khoảng 80-90% phôi nang lệch bội. Vì vậy, việc chuyển phôi nguyên bội có thể làm tăng cơ hội mang thai lâm sàng, giảm tỷ lệ sẩy thai và cuối cùng làm tăng tỷ lệ sinh sống ở nhóm phụ nữ > 35 tuổi. Trong hai thập kỷ gần đây, việc sàng lọc lệch bội đã được quan tâm nhiều ở những bệnh nhân lớn tuổi. Tuy nhiên, hiệu quả của PGT-A vẫn chưa được xác định rõ ràng. Một nghiên cứu ngẫu nhiên đa trung tâm cho thấy PGT-A giúp cải thiện tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ sinh sống, giảm tỷ lệ sẩy thai ở nhóm phụ nữ từ 38 đến 41 tuổi sau lần chuyển phôi đầu tiên so với những phụ nữ được chuyển phôi mà không sàng lọc lệch bội; tuy nhiên, không có sự khác biệt về tỷ lệ sinh sống tích lũy giữa hai nhóm.
Mặc dù có nhiều nghiên cứu tập trung vào lợi ích của việc sàng lọc lệch bội ở phụ nữ lớn tuổi, nhưng rất ít nghiên cứu được thực hiện trên nhóm phụ nữ trẻ tuổi. Cho đến nay, chỉ có một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên đã chứng minh được lợi ích của việc sàng lọc thể lệch bội đối với nhóm phụ nữ trẻ tuổi. Trong nghiên cứu này, người ta thấy rằng sàng lọc phôi nang lệch bội có thể làm tăng đáng kể tỷ lệ làm tổ và giảm nguy cơ sẩy thai trong các chu kỳ chuyển phôi trữ nhưng đây là nghiên cứu có cỡ mẫu nhỏ, và tỷ lệ sinh sống lại không được báo cáo.
Tuy nhiên PGT-A là một phương pháp chọn lọc phôi trước khi chuyển chứ không phải là phương pháp giúp cải thiện chất lượng phôi. Vì vậy PGT-A có thể làm tăng tỷ lệ làm tổ trong các chu kỳ chuyển phôi đầu tiên nhưng phôi cũng có thể bị tổn thương do quá trình sinh thiết và thủy tinh hóa, làm ảnh hưởng đến tỷ lệ làm tổ, hoặc bệnh nhân có thể mất phôi do sai sót trong quá trình chẩn đoán hoặc do thể khảm. Vì vậy mục đích của nghiên cứu này là đánh giá hiệu quả của việc tầm soát lệch bội ở nhóm phụ nữ trẻ tuổi có thực hiện PGT-M đối với tỷ lệ thai diễn tiến/tỷ lệ sinh sống.
Thiết kế nghiên cứu: Đây là nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu (2019), được thực hiện từ tháng 1 năm 2016 đến tháng 12 năm 2017 với 569 chu kỳ chuyển phôi trữ. Bệnh nhân được chia làm hai nhóm. Nhóm tầm soát lệch bội (aneuploidy screening – AS) bao gồm 98 bệnh nhân thực hiện PGT-M kết hợp PGT-A. Tổng cộng có 105 chu kỳ chọc hút với 131 chu kỳ chuyển phôi trữ ở nhóm này. Nhóm thứ hai là nhóm non-AS bao gồm 266 bệnh nhân chỉ thực hiện PGT-M với 280 chu kỳ chọc hút và 438 chu kỳ chuyển phôi trữ.
Kết quả: Tầm soát lệch bội đã cải thiện đáng kể tỷ lệ thai diễn tiến/tỷ lệ trẻ sinh sống (61,22% so với 43,98%), tỷ lệ làm tổ (64,29% so với 50,38%) và tỷ lệ trẻ sinh sống (53,06% so với 36,09%) ở nhóm phụ nữ trẻ tuổi thực hiện PGT-M trong chu kỳ chuyển phôi trữ đầu tiên. Bên cạnh đó, tỷ lệ sẩy thai cũng giảm đáng kể (3,17% so với 11,94%). Trong các kết quả mang thai tích lũy, tỷ lệ cộng dồn tỷ lệ thai diễn tiến /tỷ lệ sinh sống trên mỗi lần chuyển và trên mỗi bệnh nhân cao hơn đáng kể ở nhóm AS (62,24% so với 50,38% và 79,59% so với 68,80%). Ngoài ra, sàng lọc lệch bội làm giảm khoảng thời gian từ lần chuyển phôi đầu tiên đến khi có thai.
Kết luận: Sàng lọc lệch bội giúp cải thiện đáng kể tỷ lệ thai diễn tiến/tỷ lệ sinh sống ở nhóm phụ nữ trẻ mang bệnh đơn gen trong các chu kỳ FET đầu tiên.
Nguồn: Hou, W., Xu, Y., Li, R., Song, J., Wang, J., Zeng, Y., ... & Xu, Y. (2019). Role of aneuploidy screening in preimplantation genetic testing for monogenic diseases in young women. Fertility and sterility, 111(5), 928-935.
Hiện nay xét nghiệm di truyền phôi tiền làm tổ (PGT) đang là một phương pháp hiệu quả để thay thế các xét nghiệm chẩn đoán di truyền trước sinh, nhằm tránh các nguy cơ mắc bệnh di truyền cho thai nhi cũng như giảm các biến chứng sản khoa cho người mẹ. PGT giúp xác định các phôi có bất thường về số lượng, cấu trúc NST, các bất thường liên kết NST giới tính và đặc biệt là các bệnh lý rối loạn đơn gen. Cùng với sự phát triển của các kỹ thuật sinh học phân tử, ngày càng nhiều các bệnh lý đơn gen được phát hiện nhờ kỹ thuật PGT, điều này đã thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của xét nghiệm di truyền phôi tiền làm tổ đối với các bệnh đơn gen (PGT-M).
Bất thường nhiễm sắc thể là nguyên nhân thường gặp nhất gây sẩy thai và chiếm hơn 50% các trường hợp sẩy thai tự nhiên. Bên cạnh đó, lệch bội là một trong những nguyên nhân chính gây ra thất bại làm tổ. Tỷ lệ lệch bội tăng theo tuổi mẹ. Theo nghiên cứu của Ata B và cộng sự năm 2012 đã cho thấy phụ nữ 35–39 tuổi có tỷ lệ phôi lệch bội khoảng 50%, từ 40-42 tuổi tỉ lệ này tăng lên 66,7% và ở nhóm phụ nữ > 42 tuổi có khoảng 80-90% phôi nang lệch bội. Vì vậy, việc chuyển phôi nguyên bội có thể làm tăng cơ hội mang thai lâm sàng, giảm tỷ lệ sẩy thai và cuối cùng làm tăng tỷ lệ sinh sống ở nhóm phụ nữ > 35 tuổi. Trong hai thập kỷ gần đây, việc sàng lọc lệch bội đã được quan tâm nhiều ở những bệnh nhân lớn tuổi. Tuy nhiên, hiệu quả của PGT-A vẫn chưa được xác định rõ ràng. Một nghiên cứu ngẫu nhiên đa trung tâm cho thấy PGT-A giúp cải thiện tỷ lệ thai lâm sàng, tỷ lệ sinh sống, giảm tỷ lệ sẩy thai ở nhóm phụ nữ từ 38 đến 41 tuổi sau lần chuyển phôi đầu tiên so với những phụ nữ được chuyển phôi mà không sàng lọc lệch bội; tuy nhiên, không có sự khác biệt về tỷ lệ sinh sống tích lũy giữa hai nhóm.
Mặc dù có nhiều nghiên cứu tập trung vào lợi ích của việc sàng lọc lệch bội ở phụ nữ lớn tuổi, nhưng rất ít nghiên cứu được thực hiện trên nhóm phụ nữ trẻ tuổi. Cho đến nay, chỉ có một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên đã chứng minh được lợi ích của việc sàng lọc thể lệch bội đối với nhóm phụ nữ trẻ tuổi. Trong nghiên cứu này, người ta thấy rằng sàng lọc phôi nang lệch bội có thể làm tăng đáng kể tỷ lệ làm tổ và giảm nguy cơ sẩy thai trong các chu kỳ chuyển phôi trữ nhưng đây là nghiên cứu có cỡ mẫu nhỏ, và tỷ lệ sinh sống lại không được báo cáo.
Tuy nhiên PGT-A là một phương pháp chọn lọc phôi trước khi chuyển chứ không phải là phương pháp giúp cải thiện chất lượng phôi. Vì vậy PGT-A có thể làm tăng tỷ lệ làm tổ trong các chu kỳ chuyển phôi đầu tiên nhưng phôi cũng có thể bị tổn thương do quá trình sinh thiết và thủy tinh hóa, làm ảnh hưởng đến tỷ lệ làm tổ, hoặc bệnh nhân có thể mất phôi do sai sót trong quá trình chẩn đoán hoặc do thể khảm. Vì vậy mục đích của nghiên cứu này là đánh giá hiệu quả của việc tầm soát lệch bội ở nhóm phụ nữ trẻ tuổi có thực hiện PGT-M đối với tỷ lệ thai diễn tiến/tỷ lệ sinh sống.
Thiết kế nghiên cứu: Đây là nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu (2019), được thực hiện từ tháng 1 năm 2016 đến tháng 12 năm 2017 với 569 chu kỳ chuyển phôi trữ. Bệnh nhân được chia làm hai nhóm. Nhóm tầm soát lệch bội (aneuploidy screening – AS) bao gồm 98 bệnh nhân thực hiện PGT-M kết hợp PGT-A. Tổng cộng có 105 chu kỳ chọc hút với 131 chu kỳ chuyển phôi trữ ở nhóm này. Nhóm thứ hai là nhóm non-AS bao gồm 266 bệnh nhân chỉ thực hiện PGT-M với 280 chu kỳ chọc hút và 438 chu kỳ chuyển phôi trữ.
Kết quả: Tầm soát lệch bội đã cải thiện đáng kể tỷ lệ thai diễn tiến/tỷ lệ trẻ sinh sống (61,22% so với 43,98%), tỷ lệ làm tổ (64,29% so với 50,38%) và tỷ lệ trẻ sinh sống (53,06% so với 36,09%) ở nhóm phụ nữ trẻ tuổi thực hiện PGT-M trong chu kỳ chuyển phôi trữ đầu tiên. Bên cạnh đó, tỷ lệ sẩy thai cũng giảm đáng kể (3,17% so với 11,94%). Trong các kết quả mang thai tích lũy, tỷ lệ cộng dồn tỷ lệ thai diễn tiến /tỷ lệ sinh sống trên mỗi lần chuyển và trên mỗi bệnh nhân cao hơn đáng kể ở nhóm AS (62,24% so với 50,38% và 79,59% so với 68,80%). Ngoài ra, sàng lọc lệch bội làm giảm khoảng thời gian từ lần chuyển phôi đầu tiên đến khi có thai.
Kết luận: Sàng lọc lệch bội giúp cải thiện đáng kể tỷ lệ thai diễn tiến/tỷ lệ sinh sống ở nhóm phụ nữ trẻ mang bệnh đơn gen trong các chu kỳ FET đầu tiên.
Nguồn: Hou, W., Xu, Y., Li, R., Song, J., Wang, J., Zeng, Y., ... & Xu, Y. (2019). Role of aneuploidy screening in preimplantation genetic testing for monogenic diseases in young women. Fertility and sterility, 111(5), 928-935.
Các tin khác cùng chuyên mục:
COVID-19 có gây ảnh hưởng lên sức khỏe sinh sản nam giới? - Ngày đăng: 21-09-2021
Phụ nữ thừa cân béo phì có tăng nguy cơ sẩy thai sau khi chuyển phôi nguyên bội không? - Ngày đăng: 21-09-2021
Ảnh hưởng của hình dạng tinh trùng lên kết cục mang thai và trẻ sinh ra từ IVF và ICSI: một nghiên cứu bệnh – chứng ghép cặp - Ngày đăng: 20-09-2021
Kết quả ICSI của tinh trùng tươi hoặc trữ lạnh từ micro-TESE ở bệnh nhân vô tinh không do tắc - Ngày đăng: 20-09-2021
Sử dụng machine learning để tối ứu hoá việc chọn ngày trigger nhằm cải thiện kết cục điều trị hỗ trợ sinh sản - Ngày đăng: 16-09-2021
Rào cản và các yếu tố hỗ trợ trong việc quản lý cân nặng ở phụ nữ thừa cân – béo phì có hội chứng buồng trứng đa nang - Ngày đăng: 16-09-2021
Kết quả thai trên những bệnh nhân là người lành mang chuyển đoạn thuận nghịch trước và sau khi thực hiện tầm soát di truyền tiền làm tổ - Ngày đăng: 16-09-2021
Chuyển phôi trữ ngay lập tức hay trì hoãn chuyển phôi trữ ở bệnh nhân thất bại trong chu kỳ chuyển phôi tươi: một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên đa trung tâm - Ngày đăng: 16-09-2021
Định lượng DNA ti thể không xâm lấn ở phôi ngày 3 tiên lượng khả năng phát triển phôi nang: một nghiên cứu tiến cứu mù đôi đa trung tâm - Ngày đăng: 16-09-2021
Các thông số động học hình thái làm tiêu chí bổ trợ để lựa chọn phôi nang trong hệ thống nuôi cấy time – lapse - Ngày đăng: 16-09-2021
DNA ti thể trong môi trường nuôi cấy của phôi tươi so với phôi trữ ở bệnh nhân PCOS điều trị thụ tinh trong ống nghiệm: Một dấu ấn tiên lượng thai lâm sàng - Ngày đăng: 16-09-2021
Melatonin làm giảm stress oxi hóa và quá trình apoptosis do sốc nhiệt ở tinh trùng người - Ngày đăng: 16-09-2021
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Chủ Nhật ngày 15 . 12 . 2024
Năm 2020
Windsor Plaza Hotel, Thứ Bảy 14.12 . 2024
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK